"CÓ MỘT CỤ GIÀ…." & Tâm sự cuộc sống về già & Chọn lựa cơn bão cho mình
Ngày đăng: 2:47 PM - 19/04/2023

Khi gặp gỡ các bạn trẻ đang yêu, ta có thể nhận ra sự tươi mới và ấm áp trong lòng họ. Khi sống trong tình yêu, những người ấy tỏa ra một năng lượng sống tích cực, mà người xung quanh có thể cảm nhận được. Niềm vui và hạnh phúc trong lòng họ, chiếu tỏa rạng rỡ trên cả khuôn mặt. Còn với những bạn đang phải đối diện với mối tình tan vỡ, họ thấy cả bầu trời như tối sầm lại. Con tim trở nên chai cứng và đôi mắt chỉ hướng về những điều tiêu cực.
Dẫu biết rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng! Nhưng làm thế nào, đừng để cho nỗi buồn che mờ và đánh cắp mất niềm hy vọng trong lòng chúng ta?
Sau cái chết tức tưởi của Thầy Giê-su, các môn đệ đóng kín cửa lòng và sống trong thất vọng. Bao kỳ vọng nơi Thầy kính yêu, nay trở thành nỗi thất vọng cay đắng. Họ thấy mình, như những kẻ bại trận. Lời mời gọi „hãy theo Thầy” ngày nào với bao ước mơ đẹp, nay chỉ còn lại sự thật phũ phàng, đầy bế tắc và hụt hẫng. Họ muốn bỏ cuộc, và trở về với nhịp sống thường ngày trước đây. Nhưng Đức Giê-su Phục Sinh không bao giờ bỏ rơi các môn đệ của mình.
Chúa Nhật thứ ba mùa Phục Sinh,[1] chúng ta đọc câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau. Cuộc hành trình đặc biệt ấy, được thánh sử Lu-ca thuật lại một cách sống động và ẩn chứa nhiều biểu tượng sâu sắc. Độc giả được dẫn vào câu chuyện một cách khéo léo. Con đường từ Giê-ru-sa-lem đến làng Em-mau chừng mười một cây số. Đi bộ mất khoảng hai giờ. Một khoảng thời gian đủ để trò chuyện một cách nghiêm túc. Chúng ta bước vào câu chuyện, theo cái nhìn của Đức Giê-su, như một người „khách lạ” đến đồng hành với hai môn đệ. Trên con đường ấy, chúng ta sẽ nhìn thấy sự biến đổi nội tâm của hai môn đệ: Họ đi từ thất vọng ngậm ngùi, cho đến lòng mừng rỡ hân hoan.
Trước đây, các môn đệ kỳ vọng và hãnh diện vì được đi theo Thầy Giê-su. Một người giảng dạy có uy quyền và làm nhiều phép lạ. Họ nghĩ Ngài là Đấng Mê-si-a sẽ cứu dân Is-ra-el khỏi sự đàn áp của quân La-mã. Nhưng cái chết tức tưởi của Ngài trên thập giá đã đánh tan bao kỳ vọng của họ. Sự ra đi của Đức Giê-su để lại trong lòng các môn đệ một sự trống rỗng mênh mang, và thất vọng ê chề. Biến cố đau thương ấy đẩy họ vào sự hoài nghi và ngờ vực tột cùng. Đến nỗi, những tin đồn về sự phục sinh của Ngài, chỉ khiến họ thêm bối rối. Họ không thể tin, và không muốn bị lừa thêm một lần nữa!
Cho nên, chúng ta có thể hiểu phần nào lý do tại sao những lần hiện ra của Đức Ki-tô Phục Sinh với các môn đệ, hầu hết họ không nhận ra Ngài. Đâu có phải vì thân xác phục sinh của Ngài đã thay đổi hình dạng, khiến họ không nhận ra! Nhưng là do mắt của họ đang bị che khuất, đang bị mờ đi, vì nỗi buồn quá lớn về sự ra đi của Thầy Giê-su. Khi lòng rối bời, họ không nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh đang đi bên cạnh!
Đức Giê-su kiên nhẫn giải thích cho họ tất cả những điều trong Kinh Thánh liên quan đến Ngài: Đấng Mê-si-a phải chịu đau khổ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Khi hiểu, con tim họ vui trở lại. Cuối cùng, mắt họ được mở ra khi Ngài bẻ bánh, và họ nhận ra Thầy Giê-su đang ở với mình.
Câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau cho thấy rõ sự kết nối giữa hiểu và tin. Hai môn đệ biết những gì đã xảy ra với Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, nghe lời giải thích về các sự kiện ấy, và lòng các ông đã bừng cháy nên, nhưng mãi về sau này, các ông mới nhận ra sự hiện diện của Đức Giê-su. Như thế, hai môn đệ được dẫn đi một hành trình lớn lên trong đức tin và sống làm chứng cho điều mình tin. Sự hiểu biết giúp cho lòng tin thêm vững vàng và việc tham dự vào hồng ân bẻ bánh, mắt họ được mở ra, họ nhận ra sự hiện diện của Đức Ki-tô Phục Sinh; và họ bắt đầu sống cuộc đời chứng nhân.
Có thể tóm kết, câu chuyện Em-mau là „tiên báo” về việc cử hành thánh lễ, cũng như tất cả các nghi thức phụng vụ khác trong Giáo hội. Đời sống đức tin của người ki-tô hữu cần được nuôi dưỡng từ Lời Chúa và các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Bên cạnh đó, chúng ta được mời gọi: không ngừng học hỏi những điều liên quan đến đời sống đức tin.
Câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau là câu chuyện hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Trong đời sống đức tin, ai cũng có những bối rối và phải đấu tranh với nghi ngờ trong lòng mình. Kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau mời gọi mỗi chúng ta: hãy rút ra bài học thiêng liêng cho riêng mình về cách thăng tiến trong đời sống đức tin, và xây dựng mối tương quan cá vị với Thiên Chúa. Hai môn đệ đã suy ngẫm Lời Chúa để hiểu, để tin và được mở mắt. Mỗi người chúng ta cũng cần lặp đi lặp lại hành trình này bằng cách: dành thời gian suy ngẫm Lời Chúa, học lắng nghe tiếng Chúa, và để cho Lời Chúa biến đổi đời sống chúng ta.
Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, Ngài đã hiện ra để củng cố sự hiểu biết và tăng thêm niềm tin cho các môn đệ. Xin giúp chúng con mỗi ngày hiểu biết về Chúa hơn. Nhất là sự hiểu biết về mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh, để hồng ân sự sống mới bừng cháy trong tâm hồn và sinh nhiều hoa trái trong cuộc sống mỗi người chúng con. Amen.
Lm. Giu-se Trần Văn Ngữ, SJ
[1] Tin Mừng Chúa Nhật III mùa Phục Sinh Năm A: Đức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau (Lc 24,13-35).
https://dongten.net/suy-tu-tin-mung-cn3-psa-bai-hoc-tren-duong-em-mau/
CHỌN LỰA CƠN BÃO CHO MÌNH
https://giaophanlongxuyen.org/tin-tuc/chon-lua-con-bao-cho-minh.html
Thiên Chúa của chúng ta tôn vinh cả hỗn loạn và trật tự, chính vì thế, giữ cho cả hai trong thế căng thằng là một điều lành mạnh.
“Chúng ta chỉ sống, chỉ ngạc nhiên, bị nuốt trọn trong ngọn lửa hoặc ngọn lửa”.
T.S. Eliot đã viết dòng này, và gợi ý rằng lựa chọn của chúng ta trong đời này không phải là giữa bình yên và cơn bão, mà là cơn bão này hay cơn bão kia.
Dĩ nhiên ông nói đúng, nhưng đôi khi cần thay đổi phép ẩn dụ này: Chúng ta sống trong một thế giới kẹt giữa hai vị thần rất mạnh và rất khác biệt, là hỗn loạn và trật tự.
Hỗn loạn là thần của lửa, sinh sôi, liều lĩnh, sáng tạo, đổi mới hoặc buông bỏ. Hỗn loạn là thần của sự hoang dại, đem đến sự hỗn loạn và rối ren. Hầu hết nghệ sĩ thờ phụng thần này. Hỗn loạn còn là thần của sự thao thức, bồn chồn và tan rã. Thật vậy, hỗn loạn hoạt động bằng sự tan rã những gì ổn định. Hỗn loạn thường được những người người có tâm thức tự do tôn thờ.
Trật tự là thần của nước, của sự thận trọng, thanh tẩy, thường thức, ổn định và bám víu. Trật tự là thần của quy tắc, thích hệ thống và một mái nhà không dột. Trật tự thường được những người có tâm thức bảo thủ tôn thờ. Ít nghệ sĩ hướng về trật tự, nhưng thế giới kinh doanh và giáo hội đã bù đắp quá đủ cho phần này. Nhìn chung, trật tự là thần của họ. Trật tự cũng có thể là thần của sự tẻ nhạt, dè dặt và khắt khe. Với trật tự, ta không bao giờ bị tan rã, nhưng có lẽ sẽ thấy ngột ngạt. Tuy nhiên, dù không đem lại nhiều sự phấn khích, thần trật tự giữ cho nhiều người được tỉnh trí và sống.
Hỗn loạn và trật tự, lửa và nước, không ưa nhau lắm. Tuy nhiên, cả hai đều yêu cầu ta phải tôn thờ. Thật không may, như mọi thần linh phiến diện, cả hai đều muốn chiếm lấy tất cả chúng ta, nhưng nếu chúng ta chịu quy phục như thế thì rất nguy hiểm.
Trung thành với một trong hai một cách tuyệt đối, thường dẫn đến sự tự diệt. Khi hỗn loạn nắm quyền và không có trật tự kiểm soát, thì sự tan rã về tinh thần và tình cảm sớm bao trùm lên ta một bóng tối thường không thể nào vượt qua nổi. Và đó chính là ý nghĩa của tan rã. Ngược lại, khi trật tự hoàn toàn triệt tiêu hỗn loạn, trở nên một nhân đức tự diệt đóng giả làm Thượng đế, thì nó hút cạn sức sống của hân hoan và khả thể.
Tôn thờ chỉ một trong hai là rất nguy hiểm. Cả hai đều cần thiết. Linh hồn, giáo hội, đời sống thực tế, cơ cấu xã hội và cả tình yêu đều cần đến sự hòa trộn của cả hai, cả lửa và nước, cả hỗn loạn và trật tự. Quá nhiều lửa thì sẽ cháy, sẽ tan rã. Quá nhiều nước và chẳng có gì đổi thay, thì sự nhẫn tâm ngự trị. Quá nhiều buông bỏ thì sự siêu phàm của tình yêu trở nên rẻ rúng, quá nhiều dè dặt thì tình yêu chỉ còn là thứ khô khan héo hắt. Không, cả hai đều cần thiết, cả trong đời sống thực tế, trong đời sống tình yêu, trong giáo hội, luân lý, kinh doanh và chính phủ. Liều lĩnh và thận trọng, nhạc rock và nhạc bình ca, cả hai đều chứa đựng tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Không phải tình cờ mà chúng ta kẹt giữa hai thứ này.
Và đây cũng không có gì là bất ngờ, vì Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa của cả hai, cả lửa và nước, cả hỗn loạn và trật tự, cả tự do và bảo thủ, cả tình yêu trong trắng và hoang đàng. Thiên Chúa là điểm quy chiếu và cũng là nguyên tắc cho sự đổi mới, tươi mới và hồi sinh.
Thánh Tôma Aquinô từng định nghĩa tâm hồn con người là cấu thành từ hai nguyên tắc, nguyên tắc của sinh lực và nguyên tắc của sự dung hợp. Một nguyên tắc giữ cho chúng ta sống và nguyên tắc kia giữ chúng ta cố kết. Hai nguyên tắc này, dù có căng thẳng với nhau, nhưng vô cùng cần đến nhau. Một tâm hồn lành mạnh giữ cho cho chúng ta có sinh lực, háo hức sống, nhưng một linh hồn lành mạnh cũng giữ cho chúng ta cố kết, biết mình là ai. Tâm hồn chúng ta cần đem lại cho chúng ta sinh lực và sự toàn vẹn, lửa và keo.
Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu muốn và cần cả trật tự lẫn hỗn loạn. Tình yêu luôn muốn xây dựng mái ấm, yên ổn, tạo một nơi yên bình, vững vàng và thanh sạch. Trong chúng ta có khát khao thiên đàng, do đó tình yêu hướng về trật tự. Nó muốn tránh sự tan rã về tình cảm và tinh thần. Nhưng tình yêu cũng hướng về sự hỗn loạn. Trong tình yêu có gì đó muốn buông bỏ, muốn bị chiếm lấy, muốn bỏ đi những giới hạn, muốn cái mới, cái lạ và muốn buông bỏ con người cũ. Đó là một nguyên tắc mang tính sinh sôi trong tình yêu đã giúp duy trì nhân loại này!
Thiên Chúa của chúng ta tôn vinh cả hỗn loạn và trật tự, chính vì thế, giữ cho cả hai trong thế căng thằng là một điều lành mạnh. Để được lành mạnh, chúng ta cần đưa cả hai lại với nhau trong lòng mình, và không phải là kiểu đưa hai đảng đến bàn đàm phán, mà là theo kiểu hệ thống cao áp-thấp áp tạo nên một cơn bão. Sau cơn bão, trời lại sáng.
Trong giông tố, có sự sống và có Thiên Chúa. Trong giông tố, chúng ta khởi đầu, sự khởi đầu thông việc chìm vào ngọn lửa dữ dội của dục vọng và làn nước ngất ngây của sự quy phục.
J.B. Thái Hòa chuyển dịch
Ronald Rolheiser OMI