Chương trình tông du của ĐTC Phanxicô tại Hungary

Ngày đăng: 4:28 PM - 24/04/2023

Chương trình tông du của ĐTC Phanxicô tại Hungary
https://tgpsaigon.net/bai-viet/chuong-trinh-tong-du-cua-dtc-phanxico-tai-hungary-68581
Chương trình tông du của ĐTC Phanxicô tại Hungary

TÔNG DU CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
TẠI HUNGARY
28 – 30/04/2023

Thứ Sáu ngày 28 tháng 04 năm 2023
ROMA – BUDAPEST

08:10

Khởi hành từ sân bay quốc tế Roma/Fiumicino để bay đến Budapest

 

10:00

Đến sân bay quốc tế Budapest

 

10:00

CHÀO ĐÓN CHÍNH THỨC

 

11:00

NGHI THỨC TIẾP ĐÓN tại quảng trường của Dinh “Sándor”

 

11:30

THĂM HỮU NGHỊ TỔNG THỐNG CỘNG HOÀ tại Dinh “Sándor”

 

11:55

GẶP THỦ TƯỚNG

 

12:20

GẶP CHÍNH QUYỀN, XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ NGOẠI GIAO ĐOÀN tại Đan viện cũ Cát Minh

Diễn văn của ĐTC

17:00

GẶP GỠ CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC, PHÓ TẾ, TU SĨ, CHỦNG SINH VÀ CÁC NHÂN VIÊN MỤC VỤ tại Đồng Nhà thờ Chính toà Thánh Stêphanô

Diễn văn của ĐTC

 


Thứ Bảy ngày 29 tháng 04 năm 2023
BUDAPEST

08:45

THĂM RIÊNG CÁC TRẺ EM CỦA VIỆN “CHÂN PHƯỚC LÁSZLÓ BATTHYÁNY-STRATTMANN”

 

10:15

GẶP NHỮNG NGƯỜI NGHÈO VÀ NGƯỜI TỊ NẠN tại Nhà thờ Thánh Elisabeth của Hungary

Diễn văn của ĐTC

11:30

THĂM CỘNG ĐOÀN CÔNG GIÁO HY LẠP tại Nhà thờ Công giáo Hy lạp “Sự che chở của Mẹ Thiên Chúa”

 

16:30

GẶP GỠ GIỚI TRẺ tại Sân thể thao “Papp László Budapest”

Diễn văn của ĐTC

18:00

GẶP RIÊNG CÁC TU SĨ DÒNG TÊN tại Toà Sứ thần

 


Chúa Nhật ngày 30 tháng 04 năm 2023
BUDAPEST – ROMA

09:30

THÁNH LỄ tại quảng trường Kossuth Lajos

Bài giảng của ĐTC
Kinh Lạy Nữ Vương TĐ

16:00

GẶP GIỚI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ VĂN HOÁ tại Khoa Tin học và Khoa học Kỹ thuật Sinh học của Đại học Công giáo “Péter Pázmány”

Diễn văn của ĐTC

17:30

NGHI THỨC CHÀO BIỆT tại sân bay quốc tế Budapest

 

18:00

Khởi hành từ sân bay quốc tế Budapest để trở về Roma

 

19:55

Đến sân bay quốc tế Roma/Fiumicino

Giáo hội Hungary trước ngưỡng cửa cuộc viếng thăm
của Đức Thánh Cha

Giáo hội Hungary

Hồng Thủy - Vatican News

Khẩu hiệu của chuyến viếng thăm Hungary sắp tới là “Chúa Kitô là tương lai của chúng ta”.

Đây không phải là lần đầu tiên Đức Thánh Cha đến Hungary. Vào tháng 9/2021, ngài đã đến thủ đô Budapest của Hungary để chủ sự Thánh lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52. Nhưng cuộc viếng thăm đó không được xem là một cuộc viếng thăm chính thức khi ngài chỉ dừng lại Hungary chưa tròn 8 tiếng đồng hồ. Thực tế, đây chỉ là một chặng dừng chân trước khi viếng thăm Slovakia 3 ngày. Do đó, chuyến viếng thăm Hungary lần này rất được người dân Hungary mong chờ và chính Đức Thánh Cha cũng chờ đợi để gặp mọi thành phần của Giáo hội và xã hội Hungary.

Trong số 9 triệu 731 ngàn dân của Hungary, có gần 6 triệu tín hữu Công giáo, chiếm 61,2% dân số, trong khi tín hữu Tin Lành chiếm 15% và 18% là những người vô thần. Nhóm sắc tộc chính tại Hungary là Hungary, kế đến là người Rom và người Đức.

Giáo hội Hungary được thành lập từ thế kỷ XI

Lịch sử Giáo hội ở Hungary gắn chặt với lịch sử của Nhà nước Hungary được Thánh vương Stephano I của Hungary (969 - 1038), một nhà truyền giáo và bổn mạng của Hungary, với tước hiệu “Vua Tông đồ” thành lập. Được thánh hiến ngày 25/12/1000, Vua Stephano không chỉ tổ chức đời sống chính trị của dân tộc khi hợp nhất 39 quận thành một vương quốc duy nhất, nhưng cả đời sống tôn giáo khi đặt nền móng cho nền văn hoá Kitô giáo vững chắc của quốc gia. Dưới triều đại của ngài, nhiều nhà thờ và đan viện đã được xây cất, trong đó có đan viện thánh Martino nổi tiếng của dòng Biển Đức ở Pannonhalma và 10 giáo phận được thành lập, trong đó có giáo phận Esztergom, trụ sở của Tổng Giám mục và Giáo chủ Hungary.

Khi Vua Stephano qua đời, Hungary đứng giữa cuộc chiến giữa Đế chế Roma và Giáo hoàng về việc bổ nhiệm các chức sắc cao cấp của Giáo hội và cả chính Đức Giáo hoàng. Hungary đã đứng về phía Đức Giáo hoàng. Vào thời gian này, Nhà nước và Giáo hội được hợp nhất và dưới triều Vua Thánh Louis Cả, vào thế kỷ XIV, Hungary có thêm các giáo phận mới như Nagyvárad, Nitra (ngày nay thuộc Slovakia), Csanád e Nagyszeben (ngày nay là Sibiu, ở Rumani).

Trong thời kỳ Cải cách Tin lành, phần lớn người Hungary đã từ bỏ Công giáo, nhưng nhiều người cũng đã quay trở lại sau khi Hungary bị sáp nhập vào Đế quốc Áo, vào thế kỷ 17, nhờ hoạt động của các nhà truyền giáo tại các vùng lãnh thổ mà Áo chiếm được. Nhân vật chính của cuộc Cải cách Công giáo trong nước là Đức Hồng y Péter Pázmány (1570-1637), Dòng Tên, Tổng Giám mục của Esztergom và người sáng lập Đại học Nagyszombat, đại học Công giáo Hungary đầu tiên, ngày nay là Trnava ở Slovakia. Vào thế kỷ XVIII, Nữ hoàng Maria Theresa và con trai, Joseph II của Áo đã trục xuất nhiều dòng tu khỏi lãnh thổ của Đế quốc Áo, bao gồm cả Hungary.

Ngày nay Giáo hội Hungary có 17 giáo phận và thực thể tương đương, với 2.048 giáo xứ và 168 trung tâm mục vụ, do 37 giám mục và 1.967 linh mục coi sóc, trong đó có 1.644 linh mục triều và 323 linh mục dòng. Giáo hội cũng có 287 đại chủng sinh, 62 tu huynh, 579 nữ tu và 97 thành viên tu hội đời, 2.302 giáo lý viên. Giáo hội quản lý và điều hành 565 cơ sở giáo dục với 156.194 học sinh và 228 cơ sở bác ái và xã hội.

Quan hệ ngoại giao giữa Toà Thánh và Hungary

Hai năm sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã, vào năm 1920, Toà Thánh và Hungary độc lập đã thiết lập quan hệ ngoại giao và quan hệ này kéo dài cho đến cuộc chiếm đóng của Xô Viết vào năm 1945. Giữa hai quốc gia không ký hiệp định nào nhưng chỉ có một Cam kết vào năm 1927 để hướng dẫn các tiến trình bổ nhiệm giám mục và giáo hạt quân đội.

Thời cộng sản

Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Hungary bị Xô Viết chiếm đóng và biến cố này cũng đánh dấu sự khởi đầu của cuộc bách hại chống Giáo hội. Nhiều lãnh đạo Công giáo đã bị cầm tù hoặc bị giết (một số vị đã được tuyên phong chân phước sau năm 1989). Giáo hội bị tước đoạt tài sản, trường học bị quốc hữu hóa (1948), các dòng tu bị giải thể (1950) và vào năm 1957, một điều khoản khiến Tòa thánh không thể bổ nhiệm người điều hành các giáo phận. Biện pháp này sau đó bị bãi bỏ bởi thỏa thuận ký ngày 15/9/1964 tại Budapest. Thoả thuận mới nhìn nhận quyền của Toà Thánh trong việc bổ nhiệm các giám mục nhưng dành cho chính phủ quyền từ chối.

Đức Hồng Y József Mindszenty

Một nhân vật hàng đầu trong cuộc kháng chiến chống chế độ cộng sản là Đức Hồng Y József Mindszenty (1892-1975). Ngài là Tổng Giám mục của Esztergom và Giáo chủ của Hungary từ năm 1945, được Đức Piô XII phong làm Hồng y vào năm 1946. Năm 1948, ngài đã bị bắt, bị tra tấn và bị kết án, sau một phiên tòa mang tính trình diễn, vì “phản quốc, gián điệp và buôn bán tiền tệ”. Được giải thoát trong cuộc nổi dậy năm 1956, sau tám năm tù, ngài được tị nạn chính trị tại đại sứ quán Mỹ ở Budapest và trong nhiều năm, đã từ chối lời mời tìm nơi trú ẩn ở Vatican. Ngài chỉ đến Vatican vào năm 1971 nhưng sau đó định cư ở thủ đô Vienna của Áo và qua đời ở đó vào năm 1975. Năm 1991, hài cốt của ngài được chuyển từ Mariazell, nước Áo, về Esztergom, và được chôn cất trong hầm mộ của Vương cung thánh đường. Nhân dịp viếng mộ của ngài vào năm 1991, Đức Gioan Phaolô II đã định nghĩa đó là “một chứng tá về lòng trung thành với Chúa Kitô, với Giáo hội và về tình yêu đất nước”. Ngày 12/2/2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công nhận những nhân đức anh hùng của Đức Hồng Y Mindszenty và do đó đã tuyên bố ngài là Đấng Đáng kính.

Thời hậu cộng sản

Sau khi chế độ Cộng sản sụp đổ ở Đông Âu, Giáo hội có thể tái hoạt động hoàn toàn nhờ luật mới về tự do tôn giáo được đưa ra vào năm 1990. Ngày 9/2/1990, Chính phủ Hungary nối lại quan hệ ngoại giao với Toà Thánh. Trong những năm tiếp theo, hai bên đã ký hai thỏa thuận quan trọng khác: một về hỗ trợ tôn giáo cho lực lượng vũ trang và cảnh sát biên phòng, được ký năm 1994, và một về tài trợ cho các hoạt động dịch vụ công cộng và các hoạt động tôn giáo thuần túy được thực hiện bởi Giáo hội Công giáo và về một số vấn đề về tài sản. Vấn đề tài sản được sửa đổi vào năm 2013 để điều chỉnh cho phù hợp với Hiến pháp mới năm 2011. Năm 1991, Quốc hội của Budapest cũng đã bỏ phiếu về luật hoàn trả tài sản của Giáo hội đã bị tịch thu sau chiến tranh, và năm sau đó về đề xuất tài trợ của Nhà nước cho các Giáo hội.

Trong bối cảnh mới này, Thánh Gioan Phaolô II đã viếng thăm Hungary hai lần: từ ngày 16 đến 20/8/1991 và 6 đến 7/9/1996. Cũng chính thánh nhân đã cử hành lễ tuyên phong chân phước đầu tiên cho một người Hungary sau khi cộng sản sụp đổ, đó là Đức cha Vilmos Apor, một Giám mục đã bị lính Xô Viết sát hại vào thứ Sáu Tuần Thánh năm 1945 (2/4). Các vị tử đạo khác dưới thời cộng sản được tuyên phong chân phước trong những năm sau đó.

Trong số các sự kiện nổi bật của Giáo hội Hungary trong thập niên đầu hậu cộng sản là việc cử hành Một Ngàn năm Hungary, trong năm 2000-2001, để kỷ niệm 1.000 năm Hungary được rửa tội bởi Thánh Stephano. Một sự kiện khác là Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Budapest ngày 12/9/2021 để kết thúc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52.

Những thách đố của Giáo hội Hungary

Sự sụp đổ của chế độ cộng sản đánh dấu sự tái sinh của Giáo hội ở Hungary. Với khoảng 6 triệu tín hữu Công giáo, chiếm khoảng 61% dân số, Giáo hội Công giáo Hungary rất năng động trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về giáo dục. Trong những năm này, nhiều dòng tu đã trở lại Hungary: hiện tại có hơn 100 dòng. Một điểm tích cực khác của Giáo hội Hungary là sự sống động của các phong trào giáo dân.

Tiến trình tục hoá

Trong số những thách đố chính mà các Giám mục Hungary lưu ý đó là tiến trình tục hoá đang diễn ra tại nước này. Trong dịp các Giám mục Hungary về Vatican vào năm 2008, Đức Biển Đức XVI đã lưu ý về điều này. Thực tế đầu tiên bị ảnh hưởng là gia đình. Đức Thánh Cha đã khẳng định, “ngay cả ở Hungary cũng đang trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng”. Điều này thể hiện qua việc suy giảm các cuộc hôn nhân, nhưng lại gia tăng các vụ ly hôn, việc sinh sản giảm sút và việc thực hành phá thai phổ biến (được hợp pháp từ năm 1956).

Gia đình

Và chính xác việc bảo vệ gia đình là một trong những trọng tâm mục vụ chính của Giáo hội Hungary. Giáo hội đã tranh đấu mạnh mẽ để chống lại tất cả các sáng kiến ​​​​nhằm sửa đổi tình trạng pháp lý của hôn nhân tại Hungary, ví dụ như luật năm 2009 công nhận các kết hợp đồng tính.

Bảo vệ căn tính và gốc rễ Kitô

Các giám mục cũng đã nhiều lần lên tiếng, qua các tuyên bố và tài liệu mục vụ, về việc bảo vệ cội nguồn Kitô giáo của châu Âu và căn tính Công giáo của Hungary đang bị đe dọa bởi “chủ nghĩa tân ngoại giáo”, chủ nghĩa khoái lạc và “những ý tưởng tự do cấp tiến” đang tìm cách áp đặt “chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối” trên đất nước, như các ngài đã nêu lên trong một lá thư mục vụ vào năm 2009.

Năm 2011, chính phủ đã thông qua Hiến pháp mới có Lời tựa công nhận rõ ràng vị trí ưu việt của Kitô giáo trong lịch sử của đất nước, và xác định Kitô giáo là một “yếu tố cấu thành và thống nhất của quốc gia Hungary”. Sau đó Luật Cơ bản cam kết rằng Nhà nước bảo vệ theo hiến pháp sự sống của con người từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên (mặc dù việc phá thai vẫn được hợp pháp). Chính phủ cũng đưa ra luật giáo dục mới, có hiệu lực vào năm 2013, đưa các giờ học tôn giáo tùy chọn vào trong các trường công lập.

Hoạt động bác ái xã hội của Giáo hội Hungary

Hungary cũng quảng đại hoạt động trợ giúp các Kitô hữu bị bách hại trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Trung Đông. Nhiều sáng kiến ​​được đưa ra để hỗ trợ cộng đồng Kitô hữu nạn nhân của cuộc xung đột Syria. Bên cạnh đó còn có sự trợ giúp cho những người tị nạn trong các trại tị nạn của khu vực, không phân biệt tín ngưỡng. Giáo hội quảng đại chào đón hàng ngàn người tị nạn Ucraina sau cuộc xâm lược của Nga vào ngày 24/2/2022.

Các vấn đề khác ở trung tâm mối quan tâm mục vụ của Giáo hội Hungary là sự nghèo đói và loại trừ xã ​​hội. Đặc biệt, cần lưu ý trong bối cảnh này là sự dấn thân quan trọng của Giáo hội vì người Rom, những người chiếm gần 10% dân số Hungary. Trong nhiều năm, Giáo hội địa phương đã đi đầu trong việc hội nhập họ vào cơ cấu xã hội và đưa họ đến với nền giáo dục. Hơn nữa, Giáo hội đã thực hiện bản dịch đầu tiên gồm Kinh Thánh và nghi thức Thánh lễ sang tiếng Lovari, ngôn ngữ được người Rom sử dụng rộng rãi.

Nguồn: Vatican News Tiếng Việt

https://giaophanphucuong.org/tin-giao-hoi-hoan-vu/giao-hoi-hungary-truoc-nguong-cua-cuoc-vieng-tham-cua-duc-thanh-cha-31764.html

Kinh Lạy Nữ Vương TĐ 23/4: Cùng Chúa đọc lại câu chuyện đời mình

https://tonggiaophanhue.org/tin-tuc/tin-giao-hoi-hoan-vu/kinh-lay-nu-vuong-td-23-4-cung-chua-doc-lai-cau-chuyen-doi-minh/

Trưa Chúa Nhật 23/4, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC Phanxicô khuyến khích các tín hữu làm phút hồi tâm mỗi ngày để tạ ơn Chúa và để cho lòng mình mở ra với Người.

Bài huấn dụ của ĐTC Phanxicô trước khi đọc kinh.

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Vào Chúa Nhật III Phục Sinh này, Tin Mừng thuật lại cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24:13-35). Đây là hai môn đệ, đau khổ vì cái chết của Thầy, vào ngày Phục sinh đã quyết định rời Giêrusalem để về nhà. Có lẽ họ có chút xao xuyến, bởi vì họ đã nghe các phụ nữ từ mộ trở về và kể về ngôi mộ trống… nhưng họ vẫn ra đi. Và khi họ buồn bã nói về những gì đã xảy ra, Chúa Giê-su đã cùng đi với họ, nhưng họ không nhận ra Người. Người hỏi họ tại sao lại buồn như vậy, và họ trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” (câu 18). Và Chúa Giêsu hỏi lại: “Chuyện gì vậy?” (câu 19). Họ đã kể cho Người tất cả câu chuyện. Chúa Giê-su đã làm cho họ kể về câu chuyện. Sau đó, khi cùng họ bước đi, Người giúp họ đọc lại các sự kiện theo một cách khác, dưới ánh sáng của các ngôn sứ, của Lời Chúa, của tất cả những lời loan báo cho dân Israel. Đọc lại: đó là điều Chúa Giêsu đã làm với họ, giúp họ đọc lại. Chúng ta dừng lại ở điểm này.

Thật vậy, điều quan trọng đối với chúng ta là đọc lại câu chuyện của chúng ta cùng với Chúa Giêsu: câu chuyện về cuộc đời chúng ta, về một giai đoạn nhất định, về những ngày của chúng ta, với những thất vọng và hy vọng của chúng ta. Mặt khác, chúng ta cũng giống như các môn đệ đó, trước những gì xảy đến với chúng ta, chúng ta có thể thấy mình lạc lõng trước các biến cố, cô đơn và bấp bênh, với nhiều thắc mắc và lo lắng. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nói với Chúa Giêsu mọi sự một cách chân thành, không sợ làm phiền Người, không sợ nói những điều sai, không xấu hổ về những uẩn khúc khó hiểu của chúng ta. Chúa vui khi chúng ta mở lòng mình ra với Người; chỉ bằng cách này, Người mới có thể nắm lấy tay chúng ta, đồng hành với chúng ta và làm cho trái tim của chúng ta bừng cháy trở lại (x. c. 32). Rồi chúng ta, cũng như các môn đệ Emmau, được mời gọi nài nỉ Người, để khi chiều đến, Người ở lại với chúng ta (x. c. 29).

Có một cách hay để làm điều này, và hôm nay tôi muốn đề xuất với anh chị em: đó là dành một chút thời gian, vào mỗi buổi tối, để làm phút hồi tâm ngắn. Điều gì xảy ra trong tôi? Đây là câu hỏi. Là đọc lại ngày sống của mình với Chúa Giêsu, đọc lại ngày sống của tôi: mở lòng ra với Người, mang đến với Người những con người, những chọn lựa, sợ hãi, sa ngã và hy vọng, tất cả những điều xảy ra; để dần dần học cách nhìn mọi thứ bằng con mắt khác, bằng con mắt của Người chứ không chỉ của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta có thể sống lại kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau đó. Trước tình yêu của Chúa Kitô, ngay cả những gì có vẻ mệt mỏi và không thành công cũng có thể xuất hiện dưới một ánh sáng khác: một thập giá khó khăn không ôm nỗi, sự lựa chọn tha thứ khi đối diện với sự xúc phạm, một cuộc trả thù còn đó, sự mệt mỏi trong công việc, sự chân thành phải trả giá đắt, những thử thách của đời sống gia đình sẽ có thể mở ra trước mắt chúng ta dưới một ánh sáng mới, ánh sáng của Đấng Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh, Đấng biết cách làm cho mỗi lần vấp ngã lại tiến lên một bước. Nhưng để làm được điều này, điều quan trọng là phải loại bỏ sự phòng thủ: dành thời gian và không gian cho Chúa Giêsu, không giấu giếm Người bất cứ điều gì, mang những đau khổ đến với Người, để cho mình bị tổn thương bởi sự thật của Người, để cho trái tim rung động trước hơi thở Lời Người.

Chúng ta có thể bắt đầu ngay hôm nay, dành một chút cầu nguyện vào buổi tối, nơi đó chúng ta tự hỏi: ngày hôm nay của tôi thế nào? Đâu là những viên ngọc, có lẽ được giấu kín, để tạ ơn? Đâu là một chút yêu thương tôi đã làm? Và đâu là những vấp ngã, buồn phiền, nghi ngờ và sợ hãi mà tôi cần mang đến với Chúa Giêsu để Người mở ra cho tôi những con đường mới, nâng tôi dậy và khích lệ tôi? Xin Mẹ Maria, Trinh Nữ khôn ngoan, giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu, Đấng đồng hành với chúng ta và đọc lại mỗi ngày sống của chúng ta trước mặt Người.

Nguồn: Đài Vatican News

ĐTC xin cầu nguyện cho chuyến tông du của ngài đến Hungary

 
Trong lời chào các tín hữu sau khi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha xin mọi người cầu nguyện cho chuyến tông du sắp tới của ngài đến Hungary, từ 28-30/04/2023.
 

Sau Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha nhắc rằng thứ Sáu tới ngài sẽ lên đường thăm Budapest, Hungary, trong 3 ngày để hoàn thiện chuyến thăm mà ngài đã thực hiện vào năm 2021 tại Đại hội Thánh Thể Quốc tế. Đức Thánh Cha nói rằng: “Đây sẽ là cơ hội để ôm lại một Giáo hội và một dân tộc rất thân thương. Đây cũng sẽ là một hành trình đến trung tâm châu Âu, nơi những cơn gió lạnh của chiến tranh vẫn tiếp tục thổi, trong khi các cuộc di cư của rất nhiều người đặt ra các vấn đề nhân đạo cấp bách đối với chương trình nghị sự.”

Hướng đến người dân Hungary, ngài nói: “Tôi mong được đến thăm anh chị em như một người hành hương, người bạn và người anh em của tất cả mọi người, và để gặp gỡ các Nhà Chức Trách, các Giám mục, linh mục và tu sĩ, những người trẻ, sinh viên đại học và người nghèo. Tôi biết rằng anh chị em đang rất nỗ lực để chuẩn bị cho chuyến tông du của tôi: Về điều này, tôi cảm ơn anh chị em từ tận đáy lòng.” Cuối cùng, Đức Thánh Cha xin mọi người cùng hãy đồng hành với ngài trong chuyến tông du này bằng lời cầu nguyện.

Văn Yên, SJ – Vatican News

DIỄN TỪ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
DÀNH CHO CÁC THAM DỰ VIÊN ĐẠI HỘI TOÀN THỂ CỦA
BỘ GIÁO DÂN, GIA ĐÌNH VÀ SỰ SỐNG

WHĐ (23.4.2023) – Trong những ngày qua, Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, dưới sự điều hành của Đức Hồng y Bộ trưởng Kevin Farrell, đã tổ chức Đại hội toàn thể lần thứ II với chủ đề: “Giáo dân và tính thừa tác trong Giáo hội Hiệp hành”.

Nhân dịp này, hôm thứ Bảy, ngày 22.4.2023, Đức Thánh cha Phanxicô đã dành cho các tham dự viên Đại hội buổi tiếp kiến riêng.

Dưới đây là toàn văn bài Diễn từ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Tôi chào mừng tất cả anh chị em đang tham dự Đại hội toàn thể lần thứ II của Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống. Tôi cảm ơn Đức Hồng y Farrell đã dành cho tôi những lời thật tốt đẹp.

Tôi xin cảm ơn anh chị em vì công việc đã thực hiện trong những năm qua và vì sự cam kết mà anh chị em hoạt động trong mọi lĩnh vực thuộc khả năng của mình. Những lĩnh vực này liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người: gia đình, người trẻ, người già, các hiệp hội tín hữu và, tổng quát hơn, giáo dân, vốn là những người sống trong thế giới với những niềm vui và khó khăn của họ. Tôi có thể nói rằng anh chị em là một Thánh Bộ “ tính đại chúng”, và điều này thật tuyệt vời! Xin anh chị em hãy nhớ: đừng bao giờ đánh mất đặc tính gần gũi này với con người trong thời đại chúng ta. Tôi xin nhấn mạnh: Sự gần gũi!

Trong những ngày này, anh chị em đã quy tụ để cùng nhau suy tư về chủ đề: Giáo dân và tính thừa tác trong Giáo hội Hiệp hành.

Nói chung, khi nói đến các Thừa tác vụ, chúng ta nghĩ ngay đến các thừa tác vụ “được thiết lập”: đọc sách, giúp lễ, giáo lý viên – những thừa tác vụ này được nhiều người biết đến và đã được suy tư rất nhiều. Những thừa tác vụ này được đặc trưng bởi sự can thiệp công khai của Giáo hội – một hành động cụ thể của thể chế – và một tính minh bạch nhất định. Những thừa tác vụ này được kết nối với thừa tác vụ chức thánh, bởi vì chúng liên quan đến nhiều hình thức tham gia khác nhau vào nhiệm vụ thích hợp ngay cả khi không đòi phải qua bí tích Truyền chức.

Tuy nhiên, các thừa tác vụ được thiết lập không đại diện cho phạm vi trọn vẹn của tính thừa tác của Giáo hội, vốn phổ biến hơn và, ngay từ khi có các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, đã có sự tham gia của tất cả các tín hữu (x. Tông thư Antiquum ministerium, 2). Thật không may, người ta đề cập rất ít về thừa tác vụ phổ biến này, nhưng anh chị em đã dành riêng một Đại hội toàn thể để suy tư về nó một cách đúng mực.

Trước hết, chúng ta có thể tự vấn: Đâu là nguồn gốc của tính thừa tác trong Giáo hội Hiệp hành

Chúng ta có thể xác định hai câu trả lời cơ bản.

Câu trả lời thứ nhất là: Phép rửa. Thật vậy, chức tư tế chung của tất cả các tín hữu bắt nguồn từ Phép rửa, và vì thế, chức tư tế này được thể hiện trong các thừa tác vụ. Thừa tác vụ giáo dân không dựa trên bí tích Truyền chức, nhưng trên Bí tích Rửa tội, vì thực tế là tất cả những người đã lãnh phép Rửa– giáo dân, người độc thân, các cặp vợ chồng, linh mục, tu sĩ – đều là Christofideles, những người tin vào Đức Kitô, những môn đệ của Người, và do đó, phải tham gia vào sứ mạng mà Người đã uỷ thác cho Giáo hội, cũng thông qua việc đảm nhận các thừa tác vụ đã được xác định.

Câu trả lời thứ hai là: các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Tính thừa tác của tín hữu, và của giáo dân nói riêng, bắt nguồn từ đặc sủng mà Chúa Thánh Thần phân phát trong Dân Chúa để xây dựng Giáo hội (x. ibid.): trước hết xuất hiện một đặc sủng do Thần Khí linh hứng; sau đó, Giáo hội nhìn nhận đặc sủng này như là một hoạt động hữu ích cho cộng đoàn; cuối cùng, tầm quan trong thứ ba, một thừa tác vụ cụ thể được giới thiệu và truyền bá.

Và sau đó, càng rõ ràng hơn tại sao tính thừa tác của Giáo hội không thể chỉ bị giới hạn trong các thừa tác vụ được thiết lập, mà còn bao hàm một lĩnh vực rộng lớn hơn nhiều. Ngoài ra, ngày nay cũng vậy, giống như trong các cộng đồng tiên khởi, trước những nhu cầu mục vụ đặc biệt, không cần viện đến việc thiết lập các thừa tác vụ, các mục tử có thể ủy thác cho giáo dân một số chức năng bổ sung, nghĩa là các hoạt động tạm thời, như trong trường hợp công bố Lời Chúa hoặc phân phát Thánh Thể.

Hơn nữa, bên cạnh các thừa tác vụ được thiết lập, các hoạt động bổ sung, và các chức năng được ủy thác định kỳ khác, giáo dân có thể thi hành nhiều phận sự, thể hiện sự tham gia của họ vào chức năng ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô: không chỉ trong Giáo hội, mà còn trong các môi trường mà họ được hội nhập. Có một số là thừa tác vụ bổ sung, nhưng có những thừa tác vụ khác bắt nguồn từ Phép Rửa của giáo dân.

Trước hết, tôi nghĩ đến những nhu cầu liên quan đến các hình thức nghèo nàn cũ và mới, cũng như những người di cư, là những người cần những hành động chào đón và liên đới một cách cấp bách. Trong những lĩnh vực bác ái này, nhiều hoạt động có thể phát sinh dưới hình thức của các thừa tác vụ đích thực. Đây là một không gian rộng lớn của sự cam kết đối với những ai muốn sống một cách thiết thực, trong tương quan với người khác, sự gần gũi của Chúa Giêsu mà họ thường trải nghiệm trực tiếp. Do đó, thừa tác vụ không chỉ trở thành một cam kết xã hội đơn thuần, mà còn là một điều gì đó đẹp đẽ và mang tính cá vị, một chứng tá Kitô đích thực.

Tiếp đến, tôi nghĩ đến gia đình, mà tôi biết anh chị em đã cùng nhau suy tư trong Đại hội toàn thể này, xem xét một số thách đố trong việc chăm sóc mục vụ gia đình, bao gồm những tình huống khủng hoảng hôn nhân, vấn đề của những người ly thân và ly dị, cũng như những người sống trong một cuộc hôn nhân mới hoặc đã tái hôn. Tông huấn Christofideles laici khẳng định rằng có những thừa tác vụ có nền tảng bí tích trong Hôn nhân chứ không chỉ trong phép Rửa và Thêm sức (số 23). Trong Tông huấn Familiaris consortio, sứ mạng giáo dục của gia đình được nói đến như một thừa tác vụ của việc loan báo Tin Mừng, làm cho gia đình trở thành nơi khai tâm Kitô giáo đích thực (x. số 39). Và trong Tông huấn Evangelii nuntiandi, người ta đã nhắc lại rằng bản chất thừa sai nội tại của ơn gọi hôn nhân cũng được thể hiện bên ngoài chính gia đình, khi gia đình trở thành “người loan báo Tin Mừng cho nhiều gia đình khác và cho khu vực lân cận mà họ đang sống” (x. số 71). Tôi sẽ tạm dừng một phút ở đây để suy tư thêm về Tông huấn Evangelii nuntiandi. Cho đến nay, Tông huấn này của Thánh Phaolô VI vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự. Xin hãy cầm lên, đọc lại, Tông huấn rất hợp thời. Có rất nhiều điều, đến nỗi khi tìm lại được, người ta phải thốt lên “Ôi, Đức Montini nhìn xa trông rộng biết bao!” Anh chị em có thể thấy nơi Tông huấn này tầm nhìn xa trông rộng của vị thánh vĩ đại, người đã dẫn dắt Giáo hội.

Tôi đã trích dẫn một số ví dụ về thừa tác vụ giáo dân, mà có thể thêm vào đó nhiều ví dụ khác, được các thẩm quyền giáo hội thừa nhận theo nhiều cách khác nhau như là những biểu hiện của tính thừa tác của Giáo hội theo nghĩa rộng.

Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ một điều: các thừa tác vụ, các hoạt động phục vụ, các chức vụ này, không bao giờ được trở thành sự tự quy chiếu. Tôi tức giận khi thấy những thừa tác viên giáo dân – xin lỗi vì cách diễn tả –  “dương dương tự đắc” về thừa tác vụ này. Họ là thừa tác viên, nhưng không phải là Kitô hữu. Họ là những thừa tác viên ngoại giáo, chỉ biết bản thân mình, phải không nào? Hãy thận trọng với điều này: Họ không bao giờ được trở nên tự quy chiếu. Phục vụ thì một chiều, không phải “có đi – có về”, phục vụ không bao giờ là vậy. Mục đích của các thừa tác vụ, các việc phục vụ thì vượt lên trên chính nó, đó là mang “các giá trị Kitô giáo vào các lĩnh vực xã hội, chính trị và kinh tế” (x. Tông huấn Evangelii Gaudium, 102). Đây là sứ mạng được uỷ thác trước hết cho giáo dân, những người mà hành động của họ không thể bị giới hạn “vào các công việc trong nội bộ Giáo hội, mà không có một sự dấn thân thực sự để đem Tin Mừng làm biến đổi xã hội” (ibid.). Đôi khi anh chị em nhìn thấy giáo dân và họ dường như được mặc định là linh mục. Xin vui lòng: dọn sạch vấn đề này!

Sau đó, khi lưu ý đến các loại thừa tác khác nhau mà chúng ta đã liệt kê, sẽ rất hữu ích nếu đặt câu hỏi cuối cùng: những thừa tác có đặc điểm gì chung?

Có ai điểm: Sứ mạng  Phục vụ. Thật vậy, tất cả các thừa tác vụ là sự thể hiện của sứ mạng duy nhất của Giáo hội, và tất cả đều là những hình thức của sự phục vụ người khác. Đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh rằng gốc của thuật ngữ ministry (thừa tác vụ) có từ “minus“, có nghĩa là ” “minor (nhỏ hơn). Và Chúa Giêsu đã nói như vậy: Ai là người chỉ huy thì hãy làm cho mình trở nên nhỏ bé nhất, nếu không thì họ không biết chỉ huy như thế nào. Đây là một chi tiết nhỏ, nhưng có tầm quan trọng rất lớn. Những người theo Chúa Giêsu không ngại để làm cho mình trở nên “thấp kém”, “nhỏ bé”, để phục vụ người khác. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 43-44). Đây là động lực thực sự phải truyền cảm hứng cho mọi tín hữu khi đảm nhận bất kỳ nhiệm vụ nào của Giáo hội, bất kỳ cam kết nào của chứng tá Kitô trong thực tại mà họ đang sống: sẵn sàng phục vụ anh chị em mình, và qua họ, phục vụ Đức Kitô. Chỉ bằng cách này, tất cả những ai đã lãnh phép Rửa mới có thể khám phá ra ý nghĩa cuộc đời của chính mình, hân hoan trải nghiệm rằng mình là “một sứ mạng trên trái đất này” (ibid., 273), nghĩa là, được mời gọi, theo những cách thức và hình thức khác nhau, để “mang ánh sáng, phúc lành, tạo sức sống, nuôi dưỡng, chữa lành và giải thoát” (ibid.), và để chính mình được đồng hành.

Anh chị em thân mến, một lần nữa xin cảm ơn anh chị em vì công việc anh chị em thực hiện để phục vụ Dân thánh trung thành của Thiên Chúa. Xin Đức Mẹ đồng hành với anh chị em và cầu bầu cho anh chị em có được những hồng ân của Chúa Thánh Thần. Tôi ưu ái ban phép lành cho anh chị em, và xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi. Xin cảm ơn.

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vatican.va/content (22. 4. 2023)