Công bố "Tài liệu kế hoạch" của các Giáo hội Công giáo Á châu
Ngày đăng: 4:54 PM - 09/03/2023
Thứ Tư, ngày 15/3/2023, Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) chính thức công bố “Tài liệu kế hoạch” của các Giáo hội, bao gồm chín thách đố đã được các Giám mục suy tư trong Hội nghị kỷ niệm 50 năm thành lập, vào tháng 10/2022 tại Bangkok, Thái Lan.
Đức Hồng Y Charles Bo, Tổng Giám Mục Yangon, Chủ tịch, Liên Hội đồng Giám mục Á châu, xác định cuộc họp là “một bước ngoặt cho hành trình của các Giáo hội Á châu, một cuộc đối thoại trong tình liên đới và đoàn thể tính”. Tài liệu được công bố nhằm mục đích chuyển những điều đã được xác định vào cuộc sống cụ thể của các cộng đoàn. Lấy mẫu gương của ba nhà chiêm tinh trong Tin Mừng đã truyền cảm hứng cho Hội nghị Bangkok, tài liệu kêu gọi các dân tộc Á châu trở về “bằng một con đường khác”, giống như các nhà chiêm tinh đã làm khi họ đi từ Phương Đông đến gặp Chúa Giêsu ở Bêlem.
Đức Tổng Giám Mục Pablo Virgilio David của Kalookan, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Philippines, đã trình bày tài liệu, cho biết một ủy ban được chọn do ngài đứng đầu, trong những tháng gần đây đã làm việc và hoàn thành bản dự thảo chung, được Hội nghị thông qua vào cuối cuộc gặp gỡ tháng 10.
Năm chương với 5 động từ
Tài liệu được chia thành năm chương, với nhiều động từ được sử dụng nhằm bước theo hành trình của ba nhà chiêm tinh: (1) “cùng nhau bước đi”, về chủ đề hiệp hành; (2) “quan sát”, về những thách thức đang nổi lên ở châu Á ngày nay; (3) “phân định”, về những đáp ứng đối với những thách đố mục vụ này; (4) “dâng lễ vật”, về mối tương quan giữa các Giáo hội Á châu và Giáo hội hoàn vũ; (5) và cuối cùng là “đi theo những con đường mới”, về sự hiện diện mục vụ ngày nay ở lục địa lớn.
Chín thách đố
Tài liệu đưa ra 9 thách đố đang nổi lên trong các xã hội châu Á ngày nay: (1) tình trạng của những người di cư thường là người tị nạn và người bản địa bị trục xuất khỏi quê hương; (2) gia đình, nền tảng xã hội; (3) căn tính giới; (4) vai ttrò ngày càng tăng của phụ nữ trong các xã hội phát triển nhanh chóng; (5) mối quan hệ giữa giới trẻ và thế giới ngày nay; (6) tác động của các công nghệ kỹ thuật số; (7) nhu cầu về một nền kinh tế công bằng giữa những biến đổi do đô thị hóa và toàn cầu hóa tạo ra; (8) khủng hoảng khí hậu đe dọa ngôi nhà chung của chúng ta; (9) và cuối cùng là đối thoại liên tôn.
Đối với mỗi thách đố, tài liệu kêu gọi các Giáo hội Á châu có những dấn thân hoạt động mục vụ: từ việc quan tâm đến gia đình đến vai trò lãnh đạo của phụ nữ trong các cộng đoàn Giáo hội, từ việc sử dụng ý thức hơn các công nghệ kỹ thuật số đến việc thúc đẩy các nhịp cầu đối thoại và hòa giải, trong những vết thương đang trải qua rất nhiều khu vực của Á châu.
Các Giáo hội địa phương cũng được mời gọi để thích ứng việc đào tạo giáo sĩ với các bối cảnh và nền văn hóa của Á châu.
Năm ý tưởng cho “những con đường mới”
Đối với “những con đường mới” để theo, các Giáo hội Á châu đưa ra năm ý tưởng:
(1) Bắt đầu với công cuộc loan báo Tin Mừng, hy vọng chuyển từ một mô hình dựa trên một mô hình thống trị sang một mô hình thực sự hội nhập văn hóa.
(2) Các cộng đoàn Giáo hội cơ bản, rất đông ở Á châu, được mời mở rộng lều và nhìn ra bên ngoài biên giới để khuyến khích tình huynh đệ giữa những người nam và nữ thuộc mọi tôn giáo.
(3) Những cải thiện trong đời sống Giáo hội, từ đối thoại đơn giản đến tính hiệp hành thực sự.
(4) Trong việc loan báo Tin Mừng, chuyển từ một lời loan báo trừu tượng sang kể những câu chuyện đức tin được thể hiện trong cuộc sống.
(5) Cuối cùng, như một cách tiếp cận chung, tài liệu kêu gọi các Kitô hữu sẵn sàng rời bỏ con đường cũ để đối diện với những ưu tiên mục vụ mới. Điều này có nghĩa là hướng đến những nhà truyền giáo trổi vượt như Matteo Ricci và Alessandro Valignano, những người vào thế kỷ 16 đã chú ý đến lời kêu gọi khơi dậy đức tin trong bối cảnh và văn hóa đặc biệt của châu Á.
Đức Hồng Y Oswald Gracias, Tổng Giám Mục Bombay, Ấn Độ, điều phối công việc của Hội nghị ngay từ giai đoạn chuẩn bị cho biết: “Tài liệu là một văn bản mà chúng tôi gửi đến các Giáo hội của lục địa này, trên cơ sở đó các Giáo hội có thể suy nghĩ, cầu nguyện và lựa chọn các ưu tiên của mình. Tôi cho rằng, giống như trường hợp của Tài liệu Aparecida ở châu Mỹ Latinh, tài liệu này sẽ là điểm tham chiếu cho các cộng đoàn của chúng ta trong 5 hoặc 10 năm tới. Thể hiện định hướng hoạt động trở thành Giáo hội vì một Á châu và một thế giới tốt đẹp hơn. Đây là sứ vụ mà Chúa đã giao phó cho chúng ta” (Asia News 15/3/2023)
Ngọc Yến - Vatican New
Dòng Salêdiêng kỷ niệm 120 năm hiện diện tại một quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo
![]() |
Cha Angel Fernandez Artime |
Ngày 11/3/2023, Cha Ángel Fernández Artime, Tổng quyền dòng Salêdiêng, người kế vị thứ mười của Thánh Don Bosco, đã cử hành Thánh lễ tạ ơn long trọng tại Nhà thờ chính tòa Istanbul, nhân kỷ niệm 120 năm dòng hiện diện tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, một sứ vụ bắt đầu với sự thúc đẩy của một Chân phước.
Hiện diện trong Thánh lễ có các thiếu nhi, thanh thiếu niên và nhiều thành viên khác nhau của gia đình Salêdiêng.
Cha Ángel đã cảm ơn về công việc đang được thực hiện trong khu vực và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiệp nhất với đặc sủng thừa hưởng từ Thánh Don Bosco, người Cha và Thầy của giới trẻ.
Sứ vụ Salêdiêng tại Thổ Nhĩ Kỳ
Năm 1903, Chân phước Miguel Rúa, người kế vị đầu tiên của Thánh Don Bosco, đang lãnh đạo việc mở rộng dòng Salêdiêng và không ngần ngại gửi tu sĩ của mình đến các quốc gia có thiểu số Công giáo, chẳng hạn như Thổ Nhĩ Kỳ. Từ đó, các tu sĩ Salêdiêng đã đến đất nước Hồi giáo, định cư ở trung tâm thành phố Istanbul và trong nhiều năm, đã mở được một số trung tâm giáo dục.
Trong trận động đất mới đây với những ảnh hưởng nặng nề đến miền nam đất nước và Syria, các tu sĩ Salêdiêng đã tự tổ chức để thúc đẩy các dự án và kênh quyên góp dành cho những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Gặp gỡ Đức Thượng Phụ Bartôlômêô của Chính Thống giáo Constantinople
Trong chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ, cha Tổng quyền đương nhiệm của dòng Salêdiêng đã gặp Đức Thượng Phụ Bartôlômêô của Chính Thống giáo Constantinople. Đức Thượng phụ đã cảm ơn công việc hy sinh của các tu sĩ Salêdiêng ở Thổ Nhĩ Kỳ trong 120 năm và đánh giá cao việc phục vụ của họ đối với người di cư. Ngài cũng nói về các cuộc xung đột trên thế giới, chẳng hạn như cuộc xung đột ở Ucraina, và khuyến khích phong trào đại kết.
(ACI Prensa 13/03/2023)
Theo Hồng Thủy - Vatican News (14/3/2023)
Đức Phanxicô: 10 cử chỉ mang tính biểu tượng trong 10 năm giáo hoàng
![]() |
Hình: Antoine Mekary | ALETEIA |
Là vị giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ghi dấu ấn “Khi hành động mạnh hơn lời nói” trong vai trò mục tử.
Dưới đây là một vài hình ảnh do I.Media for Aleteia chọn lọc, nhằm phác hoạ đôi nét về câu chuyện của vị giáo hoàng Nam Mỹ đầu tiên trong lịch sử.
1. Đức Phanxicô cúi chào các tín hữu trong đêm đắc cử (13/3/2013)
Hình: CNS /Paul Haring
Khi vừa xuất hiện trên ban công của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô thì phong cách của vị Tân Giáo hoàng đã rất nổi bật: Trong chiếc áo dòng trắng giản dị, ngài đã đưa ra một thỉnh cầu khác thường: “Xin anh chị em cầu nguyện với Chúa để Ngài chúc lành cho tôi”. Ngay sau đó, ngài cúi đầu trước đám đông tín hữu tập trung tại Quảng trường Thánh Phêrô và đại lộ Via della Conciliazione, để nhận lời cầu nguyện chúc lành từ Thiên Chúa. Trong khoảng 15 giây, sự im lặng bao trùm buổi tối lịch sử này.
2. Đức Phanxicô thả hoa xuống biển tưởng nhớ di dân ở Lampedusa (08/7/2013)
Hình: ©POOL-OR/CPP
Chỉ mới trên cương vị mục tử Giáo hội hoàn vũ được một thời gian ngắn, ngày 08/07/2013, Đức Phanxicô quyết định chuyến tông du đầu tiên đến thăm đảo Lampedusa, miền nam nước Ý để tiếc thương những người bị vùi mình trong đại dương và nâng đỡ tinh thần người tị nạn sống sót sau các vụ đắm tàu và các vụ vượt biên giới để đến châu Âu.
Hướng ra biển, sau một lúc thinh lặng, Đức Thánh Cha thả xuống nước một vòng hoa để tưởng nhớ hàng ngàn người di cư bị vùi mình tại Địa Trung Hải, một vùng biển đã trở thành một “nghĩa trang vĩ đại” do cuộc khủng hoảng của làn sóng di cư. Theo Liên Hiệp Quốc, hơn 20.000 người di dân đã chết ở Địa Trung Hải từ năm 2014 đến 2020.
3. Đức Phanxicô công khai bước vào tòa giải tội (28/3/2014)
Hình: ALESSANDRO BIANCHI / POOL / AFP
Chiều thứ Sáu ngày 28/3/2014, Đức Phanxicô được Đức ông Guido Marini, Trưởng ban Nghi lễ Phủ Giáo hoàng hướng dẫn bước vào tòa để giải tội cho tín hữu. Nhưng rõ ràng là không được lên kế hoạch trước, Đức Thánh Cha đã gây ngỡ ngàng khi ngài bất ngờ đi đến một tòa giải tội khác, nơi một linh mục đang chờ đợi, khiêm nhường quỳ xuống và xưng tội như một hối nhân. Cử chỉ này của Đức Thánh cha ngầm khuyến khích tín hữu Công giáo tái khám phá cảm nghiệm về bí tích Hoà giải, nơi Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Cũng trong viễn cảnh này, Đức Thánh Cha đã khai mở Năm Thánh Lòng Thương Xót vào năm 2015.
4. Đức Phanxicô gặp Thượng phụ Chính thống Nga tại Cuba (12/02/2016)
Hình: Max Rossi/Pool/Gettyimages
Sau gần 1000 năm phân ly, kể từ cuộc ly giáo vĩ đại năm 1054, lần đầu tiên vị đứng đầu Giáo hội Công giáo đã gặp Thượng phụ Chính thống giáo Moscow. Vào ngày 12/02/2016, tại một phòng khách nhỏ ở phi trường, trước một cây thánh giá lớn theo phong cách Byzantine, Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Kirill đã dành cho nhau một cái ôm rất lâu và nồng ấm, khởi đầu cho cuộc gặp gỡ lịch sử ở thủ đô La Havana, Cuba. Tại đây, các ngài đã cùng ký một bản tuyên ngôn chung.
5. Đức Phanxicô đưa 12 người tị trên chuyến bay trở về từ Hy Lạp (16/4/2016)
AP/Associated Press/East News
“Tất cả chúng ta đều là những di dân”, vào tháng 4/2016, Đức Phanxicô đã ghi dấu ấn trong lương tâm của người Châu Âu khi mà Địa Trung Hải vẫn còn là nơi diễn ra những thảm kịch của nhân loại và hàng ngàn người tị nạn đang ở trong các trung tâm mà Đức Thánh Cha gọi là “trại tập trung”. Trong chuyến tông du đến Hy Lạp và thăm một trại tị nạn ở Lesbos cùng với Thượng phụ Constantinople Bartholomew và Ieronymos, Tổng Giám mục Chính thống của Athens và Hy Lạp, khi trở về, ngài đã gây bất ngờ khi đưa 12 người tị nạn lên máy bay, trong đó có 6 trẻ em.
Trên chuyến bay đưa 3 gia đình Hồi giáo đến từ Syria về thủ đô nước Ý để bắt đầu một cuộc sống mới, Đức Thánh Cha nói rằng hành động này của ngài dù chỉ là ‘một giọt nước nhỏ vào đại dương’ nhưng ngài hy vọng rằng “đại dương đó sẽ không bao giờ như cũ nữa”.
6. Đức Phanxicô ôm Đại Imam Đền thờ Hồi giáo Al Azhar (04/02/2019)
Hình: AP
Đây không phải là cái ôm đầu tiên của Đức Phanxicô và Đại Imam Al Azhar, nhưng cái ôm ở Abu Dhabi vào ngày 04/02/2019, tại Bán đảo Ả Rập, là một dấu ấn lịch sử. Tám trăm năm sau cuộc gặp gỡ giữa Thánh Phanxicô Assisi và Sultan al-Malik al-Kamil, vào cuối Hội nghị liên tôn quốc tế tại Abu Dhabi, trước sự hiện diện của Thái Tử liên quốc Emirati và 700 vị lãnh đạo tôn giáo và văn hóa, Đức Phanxicô và Đại Imam Al Azhar đã ký “Tuyên ngôn về tinh thần huynh đệ nhân loại vì hòa bình thế giới và sự sống chung”, ủng hộ hòa bình và lên án bạo lực nhân danh Chúa.
7. Đức Phanxicô hôn chân các nhà lãnh đạo của Nam Sudan (11/4/2019)
Hình: HANDOUT | AFP
Vào tháng 4/2019, một bức ảnh hiếm có đã lan truyền khắp thế giới: Đức Phanxicô quỳ gối trước hai nhà lãnh đạo Nam Sudan, hôn chân họ để cầu xin họ ủng hộ lời cầu xin hòa bình của ngài. Với hành động này, Đức Phanxicô không chỉ gây ngạc nhiên với những người cộng tác thân cận nhất của ngài, mà còn làm nổi bật tình hình bi thảm của một đất nước không biết gì ngoài chiến tranh kể từ khi được thành lập vào năm 2011.
Sau cử chỉ này, Đức Thánh Cha đã có chuyến tông du đến Nam Sudan vào tháng 02/2023 cùng với Tổng Giám mục Canterbury và vị lãng của Giáo hội Scotland để nhắc lại lời kêu gọi hòa bình.
8. Đức Phanxicô cầu nguyện tại quảng trường thánh Phêrô trong đại dịch Covid-19 (27/3/2020)
Hình: YARA NARDI / POOL / AFP
Trong khi phần lớn thế giới bị hạn chế và tiếng chuông của các nhà thờ ở Roma đang ngân vang, thì Đức Phanxicô đứng một mình trước Quảng trường Thánh Phêrô vắng lặng và mưa tầm tã. Đây là hình ảnh của ngày 27/3/2020, mà có lẽ sẽ được lưu giữ mãi trong sử sách.
Hàng triệu người theo dõi trên màn hình Đức Thánh Cha ban phép lành Urbi et orbi, “cho thành Roma và thế giới” trong một bầu khí thật ảm đạm, nếu không muốn nói là kinh hoàng. Vài ngày trước đó, Đức Phanxicô đã giao phó thành Roma cho Đức Trinh Nữ Maria, trong khi nước Ý đang phải hứng chịu ảnh hưởng của một loại virus lúc đó chưa được biết đến và các dịch vụ y tế khẩn cấp ở phía bắc bán đảo đã bị quá tải.
9. Đức Phanxicô đến Đại sứ quán Nga (25/02/2022)
Hình: Antoine Mekary | ALETEIA
Đức Thánh Cha đã thực hiện một cử chỉ chưa từng có ngay sau khi Nga xâm chiếm Ukraine. Vào ngày 25/02/2022, chỉ vài giờ sau cuộc xâm lược, ngài quyết định đích thân đến đại sứ quán Nga gần Tòa thánh để đối thoại với đại sứ Nga.
Sau đó, Đức Phanxicô cho biết “Đó là quyết định mà tôi đã đưa ra trong một đêm thức trắng, khi nghĩ về Ukraine,” ngài quyết tâm làm một điều gì đó “để không còn cảnh chết chóc nào nữa ở Ukraine”.
Vào ngày 06/4/2022, trong buổi tiếp kiến chung, ngài đã hôn lá cờ Ukraine vừa được gửi đến từ thị trấn Boutcha, nơi bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến.
Ngoài ra, Đức Thánh Cha vẫn luôn có nhiều hành động khác để đồng cảm với những đau khổ, mất mát của người dân và kêu gọi chấm dứt chiến tranh.
10. Đức Phanxicô vĩnh biệt linh cữu của Đức Bênêđictô XVI (05/01/2023)
Hình: Vatican Media
Đây là hình ảnh duy nhất bởi vì trong lịch sử gần đây chưa có việc một giáo hoàng chôn cất vị tiền nhiệm của mình.
Tại Quảng trường Thánh Phêrô, khi thánh lễ an táng vừa kết thúc, Đức Phanxicô tiến về Vương cung Thánh đường và quay lại chờ linh cữu của Đức Bênêđictô XVI. Trước hết, ngài chúc lành và sau đó đặt tay phải lên quan tài và cúi đầu.
Trước khi kết thúc bài giảng thánh lễ, Đức Phanxicô đã dâng lên lời cầu nguyện tha thiết này: “Đức Bênêđictô XVI, người bằng hữu trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của ngài được trọn vẹn khi ngài nghe thấy tiếng nói của Chúa, bây giờ và cho đến mãi muôn đời”.
***
Chỉ với một vài tấm hình, chắc chắn chẳng thể ghi lại hết hành trình 10 năm, nhưng có lẽ, cũng phần nào giúp chúng ta nhớ lại những dấu ấn của vị Cha Chung Giáo hội:
- Một vị mục tử luôn thao thức để “mang mùi chiên”; để “đi trước”, “đi cùng”, “đi sau” đoàn chiên của mình; và hơn thế, còn quan tâm để có thể “đi với” những đoàn chiên khác trong cộng đồng nhân loại;
- Một vị mục tử luôn mở rộng con tim để đón lấy những người bé mọn, đau khổ; luôn dang rộng vòng tay để ôm lấy những người bị bỏ rơi bên lề; và rảo bước chân tới những vùng ngoại biên để gần gũi những vùng, những người bị xa lánh, lãng quên, coi thường;
- Một vị mục tử luôn muốn Giáo hội được trao phó cho mình là một Giáo hội thánh thiện, gần gũi, biết lắng nghe, biết bước đi cùng nhau;
- Một vị mục tử luôn thổn thức trước tiếng rên siết của thiên nhiên mà Thiên Chúa đã tin tưởng, yêu thương trao cho con người chăm sóc, bảo tồn và thăng hoa;
- Và, trên tất cả, một vị mục tử luôn đặt sứ vụ của mình dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần mà Chúa Kitô phục sinh ban tặng.
Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con xin Chúa thương tiếp tục ban nhiều ơn phúc, nâng đỡ, đồng hành và hướng dẫn Đức giáo hoàng Phanxicô để ngài luôn là vị mục tử mà Giáo hội cần, nhân loại cần, và Chúa mong ước.
Theo I.Media for Aleteia - Nguồn: aleteia.org (09/3/2023)
Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP - Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Hiểu Đức Giáo hoàng Phanxicô từ bên trong
Chìa khóa tốt nhất để làm điều này là sự hiểu biết của Đức Phanxicô về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng nói với George Weigel, tác giả cuốn sách Witness to Hope, rằng vấn đề đối với nhiều người viết tiểu sử trước đây là họ cố gắng “hiểu tôi từ bên ngoài. Nhưng tôi chỉ có thể được hiểu từ bên trong.”
Điều tương tự có thể được nói về Đức Thánh Cha Phanxicô và bởi chính Ngài, đó là nhiều người cố gắng tóm tắt Ngài bằng những suy luận dựa trên nhiều việc khác nhau mà Ngài đã làm: các chuyến du hành, cử chỉ, bài giảng, diễn văn, thông điệp, thư từ, cuộc hẹn, tông hiến, thông điệp, huấn thị, tự sắc, các văn kiện viết tay và nhiều điều khác nữa.
Tuy nhiên, làm thế nào để chúng ta hiểu rõ nhất về Ngài từ bên trong?
Chìa khóa tốt nhất để làm được điều đó là sự hiểu biết của Ngài về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Vào chính thời điểm triều đại giáo hoàng của Ngài bắt đầu, khi Ngài chấp nhận cuộc bầu chọn của các hồng y anh em của mình 10 năm trước, Ngài đã không chỉ nói “Accepto – Tôi chấp nhận”, vốn là cách mà các giáo hoàng thường đồng ý với cuộc bầu cử của các hồng y. Như Ngài đã nói trong phần đầu tiên của những gì đã trở thành nhiều cuộc phỏng vấn, Ngài nói với Cha Antonio Spadaro rằng Ngài đã trả lời bằng tiếng Latinh, “Tôi là một tội nhân, nhưng vì tin tưởng vào lòng thương xót và sự kiên nhẫn vô hạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và trong tinh thần sám hối, Tôi chấp nhận.”
Khi Cha Spadaro hỏi Đức Thánh Cha Phanxicô trong cùng một cuộc phỏng vấn đó, “Jorge Mario Bergoglio là ai?” ngài trả lời: “Tôi là một tội nhân mà Chúa đã nhìn đến” với lòng thương xót. Ngài nói thêm, “Tôi luôn cảm thấy khẩu hiệu của mình, Miserando atque Eligendo (Thương xót và Tuyển chọn), rất đúng với tôi,” nghĩa là Chúa nhìn đến Đức Phanxicô với tình yêu thương xót, đã chọn ngài trước tiên làm tu sĩ và linh mục, sau đó là một giám mục, và cuối cùng là người kế vị Thánh Phêrô.
Vào ngày 21 tháng 9 năm 1953, mọi thứ trong cuộc đời Ngài đã thay đổi. Ngài dừng lại ở nhà thờ giáo xứ của mình và nhìn thấy một linh mục mà Ngài không biết, Cha Carlos Duarte Ibarra và, không cần suy nghĩ nhiều, Ngài đã xin cha giải tội cho mình. Ngài ra khỏi tòa giải tội năm phút sau đó, không có ý định trở thành một nhà hóa học nữa mà trở thành một linh mục. Ngài nhận ra rằng Thiên Chúa đã chờ đợi ngài trong tòa giải tội để đổ đầy lòng thương xót cho ngài và rằng, miserando atque eligendo, Chúa đã chọn ngài làm thừa tác viên của lòng Chúa thương xót cho người khác.
Niềm xác tín đó đã trở thành leitmotif - chủ đề chính trong cuộc đời Kitô hữu, linh mục và giáo hoàng của Ngài.
Trong một cuộc phỏng vấn dài thành sách năm 2010, El Jesuita, Hồng y Bergoglio nói rằng tư cách môn đệ Chúa Kitô đích thực bắt đầu với việc chúng ta nhận ra rằng chúng ta là tội nhân cần được cứu độ và đồng thời trải nghiệm rằng Đấng Cứu Độ nhìn chúng ta với tình yêu thương xót.
Ngài nói, “Đối với tôi, cảm thấy mình là một tội nhân là một trong những điều đẹp đẽ nhất có thể xảy ra, nếu nó dẫn đến những kết quả cuối cùng của nó. … Khi một người ý thức được rằng mình là một tội nhân và được Chúa Giêsu cứu … thì người ấy khám phá ra điều vĩ đại nhất trong cuộc đời, đó là có một người yêu thương mình sâu sắc, là người đã trao ban mạng sống của người ấy cho mình.”
Ngài than thở rằng thật đáng buồn là nhiều người Công giáo đã không có được kinh nghiệm Kitô giáo cơ bản này.
“Có những người tin vào những điều đúng đắn, những người đã học giáo lý và chấp nhận đức tin Kitô giáo theo một cách nào đó, nhưng lại không có kinh nghiệm về việc được cứu độ… và do đó họ thiếu kinh nghiệm về con người của họ. Tôi tin rằng chỉ có chúng ta, những tội nhân to tát mới có được ân sủng này.” Sau cuộc bầu cử của mình, Ngài nói thêm, “Chỉ những người đã được chạm vào và vuốt ve bởi sự dịu dàng của lòng thương xót của Chúa mới thực sự biết Ngài.”
Ngay từ những ngày đầu tiên trên cương vị giáo hoàng, ngài đã tìm cách mở rộng cả Giáo hội và thế giới ra để đón nhận ân sủng này. Trong bài giảng của mình tại nhà thờ giáo xứ Thánh Anna của Vatican vào ngày 17 tháng 3 năm 2013, và trong bài suy niệm từ cửa sổ phòng làm việc của mình trước đám đông 300.000 người, ngài đã nhấn mạnh điều mà ngài khám phá được vào ngày 21 tháng 9 năm 1953, rằng: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ: Không bao giờ! Chính chúng ta là những người mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta hãy xin ơn không bao giờ mệt mỏi khi xin ơn tha thứ, bởi vì Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi ban ơn tha thứ của Ngài.”
Đức Phanxicô đã nói “toàn bộ Tin Mừng, toàn bộ Kitô giáo,” được chứa đựng trong niềm vui mà Thiên Chúa có được khi tha thứ cho chúng ta. Ngài nói: “Sứ mệnh sâu xa nhất của Chúa Giêsu là cứu chuộc tất cả chúng ta là những tội nhân.” “Tên” và “thẻ căn cước” của Chúa là lòng thương xót. Lòng thương xót là “thông điệp mạnh mẽ nhất” của Thiên Chúa. Đó là “chính nền tảng của đời sống Giáo hội” và là “nhiệm vụ chính yếu” của Giáo hội. Đó là “sức mạnh thực sự có thể cứu con người và thế giới.”
Vì những xác tín này, ngài đã triệu tập Năm Thánh Lòng Thương Xót vào năm 2015-2016 để giúp Giáo hội “tái khám phá ý nghĩa của sứ mệnh được Chúa trao phó cho Giáo hội vào ngày Phục sinh: trở thành dấu chỉ và khí cụ của lòng thương xót của Chúa Cha.”
Ngài đã viết hai tài liệu dành cho với Năm Thánh, Khuôn Mặt của Lòng Thương Xót và Lòng Thương Xót và Sự Khốn Cùng, cả hai đều là những bản tóm tắt đẹp đẽ về tâm điểm của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Trong suốt Năm Thánh, Ngài đã thiết lập “Những Thừa Sai của Lòng Thương Xót,” ban đầu có khoảng 1.100 trong số 410.000 linh mục trên thế giới, để trở thành “những người rao giảng đầy sức thuyết phục về lòng thương xót” và là “những dấu chỉ sống động cho thấy Chúa Cha sẵn sàng đón nhận những ai tìm kiếm sự tha thứ của Ngài” nhờ vào việc các vị Thừa Sai này tận tụy nghe những lời xưng tội. Ngài ban cho họ những năng quyền đặc biệt trong tòa giải tội để có thể xóa bỏ những phạt vạ và chữa lành những tội lỗi, những năng quyền vốn thường chỉ dành cho Tòa thánh. Vào cuối năm thánh, Ngài đã mở rộng vô thời hạn các năng quyền của những thừa sai sẵn lòng; và trong tông hiến mới của Giáo hội (Praedicate evangelium) được công bố vào tháng 6 năm ngoái, Ngài đã biến các Thừa sai của Lòng thương xót trở thành một phần vĩnh viễn trong cấu trúc của Giáo hội.
Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Ngài đã quan tâm nhiều hơn đến những người cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa nhất, đến những người ở “các vùng ngoại vi hiện sinh”, đến một con chiên lạc, hơn là 99 người vẫn còn trong đàn. Ngài nhìn thấy điều này khi bắt chước Chúa, Đấng “có một sự yếu đuối nhất định là yêu thương những người ở xa nhất, những người bị lạc lối. Thiên Chúa đi tìm họ.”
Lòng ưu ái đó đôi khi là nguyên nhân gây hụt hẫng cho 99 người, những người đôi khi có thể cảm thấy bối rối hoặc bị bỏ rơi bởi một vị Giáo hoàng ưu tiên gặp gỡ các phóng viên không Công giáo, những người từ bỏ Công giáo, những người chỉ trích Giáo hội, các nhà hoạt động “LGBT”, các chính trị gia ủng hộ phá thai, các nhân vật thuộc hàng giáo sĩ ưa chỉ trích và những người khác nữa.
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Phanxicô rõ ràng tin chắc rằng, khi làm như vậy, Ngài đang đi theo sự dẫn dắt của Đấng mà ngài là đại diện trên trần gian. Ngài coi sự ưu tiên này là một phương tiện để gắn kết với những đứa con hoang đàng, dù là con trai hay con gái. Ngài viết trong Năm Thánh, “Chúng ta hãy luôn nhớ rằng Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân trở lại đàn chiên hơn là khi chín mươi chín người ngay chính không cần phải hối cải.”
Tuy nhiên, sự tập trung này vào con chiên lạc không có nghĩa là ngài không nhận biết về tội lỗi của họ, hoặc bằng cách nào đó lại chúc phúc cho tội lỗi của họ. Ngài thường xuyên phân biệt giữa những gì ngài gọi là “tội nhân” và “kẻ hư hỏng”. Tội nhân là những người nhận ra mình đã sa ngã và cần sự tha thứ của Thiên Chúa; “kẻ hư hỏng” là những người đã trở nên cứng lòng trong tội lỗi của mình đến nỗi họ không ăn năn và coi thói xấu là nhân đức. Ngài đã nhiều lần và quyết liệt kêu gọi những kẻ hư hỏng hoán cải chính là để họ có thể nhận được lòng thương xót.
Ngài đã viết, “Lòng thương xót tồn tại nhưng … nếu bạn không nhận ra mình là tội nhân, điều đó có nghĩa là bạn không muốn nhận được lòng thương xót đó.”
Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, ngài đã tìm cách biến lòng thương xót thành “một động từ”, bằng cách đón nhận và chia sẻ lòng thương xót. Giống như Thánh Gioan Phaolô II trước ngài, ngài ưu tiên cho việc nghe xưng tội. Ngài thường nói rằng ngài khao khát biết bao “được bước vào nhà thờ và ngồi lại tòa giải tội một lần nữa!” bởi vì ngài coi chức linh mục như một lời kêu gọi trở thành “thừa tác viên của lòng thương xót trên mọi sự.” Ngài thường xuyên kêu gọi các tín hữu Công giáo đến xưng tội và đừng sợ hãi.
Ngài đã nói rằng Giáo hội “trước hết được kêu gọi để trở thành nhân chứng đáng tin cậy cho lòng thương xót, tuyên xưng và sống lòng thương xót đó như là cốt lõi của mặc khải về Chúa Giêsu Kitô.” Ngài đã cố gắng trở thành kiểu chứng nhân đáng tin cậy đó trong suốt cuộc đời linh mục và triều đại giáo hoàng của mình.
Đó là cách tốt nhất để hiểu ngài từ bên trong, theo các hoàn cảnh riêng của ngài.
Tác giả: LM Roger Landry - Nguồn: ncregister.com (11/3/2023)
Lược dịch: Phêrô Phạm Văn Trung - Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (13/3/2023)
10 năm triều Giáo hoàng Phanxicô với những con số
Nhân kỷ niệm 10 năm Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu chọn làm Giáo hoàng, Phòng Báo chí Toà Thánh đã phát hành một tập sách nhỏ dày 20 trang, có tựa đề “Đức Giáo hoàng Phanxicô - kỷ niệm 10 năm Giáo hoàng”, trong đó trình bày những con số về các hoạt động của Đức Thánh Cha trong 10 năm qua.
Người đến từ tận cùng thế giới
Tập sách nhỏ mở đầu với những lời đầu tiên của Đức tân Giáo hoàng khi ban phép lành đầu tiên “Urbi et Orbi” - cho Roma và toàn thế giới. Ngài nói rằng dường như các Hồng y đã chọn người ở tận cùng thế giới và xin cùng cầu nguyện cho vị tiền nhiệm của ngài, Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức. Ngài đã cùng các tín hữu đọc một kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và kinh Sáng Danh. Trước khi ban phép lành đầu tiên cho các tín hữu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xin các tín hữu cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho ngài. Và triều Giáo hoàng Phanxicô bắt đầu.
Kinh Truyền Tin và tiếp kiến chung
Sau 10 năm, Đức Thánh Cha đã chủ sự 569 buổi đọc Kinh Truyền Tin hoặc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng vào trưa các Chúa Nhật và các ngày lễ trọng, 437 buổi tiếp kiến chung tại Vatican vào các sáng thứ Tư.
Các tài liệu giáo huấn
Đặc biệt, Đức Thánh Cha đã ban hành nhiều tài liệu quan trọng, trong đó có 3 thông điệp: Lumen fidei (2013), Laudato sì (2015) và Fratelli tutti (2020); bên cạnh đó là 6 tông hiến, với tông hiến mới nhất Praedicate Evangelium - Hãy đi rao giảng Tin Mừng - về cải cách giáo triều Rôma. Đức Thánh Cha cũng đã ban hành 5 tông huấn về các vấn đề loan báo Tin Mừng, tình yêu gia đình, ơn gọi nên thánh, về giới trẻ và về miền Amazon.
Tuyên hơn 1.000 vị thánh ; phong 121 Hồng y
Trong 10 năm qua, Đức Thánh Cha đã tuyên thánh 6.010 vị và tuyên chân phước 1.443 vị, triệu tập 8 Công nghị Hồng y để thăng 121 vị làm Hồng y.
3 kỳ Đại hội Giới trẻ Thế giới
Đức Thánh Cha cũng đã tham dự 3 Đại hội Giới trẻ Thế giới: tại Rio de Janeiro, Brazil, năm 2013; Cracovia, Ba Lan, năm 2016; và Panama năm 2019. Bên cạnh đó, ngài đã triệu tập 5 Thượng Hội đồng, đặc biệt là Thượng Hội đồng Giám mục về hiệp hành, đang diễn ra từ năm 2021-2024.
40 chuyến tông du nước ngoài
Từ khi khai mạc sứ vụ đến nay, Đức Thánh Cha đã thực hiện 40 chuyến tông du nước ngoài, thăm viếng 60 nước, trong đó có những quốc gia lần đầu tiên tiếp đón vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo, không kể rất nhiều lần viếng thăm các giáo phận ở Ý và nhiều giáo xứ ở Rôma.
Nguồn: vaticannews.va/vi
ĐTC Phanxicô: Làm Giáo hoàng không phải là một việc dễ dàng

Trong một cuộc phỏng vấn được thực hiện bởi nhật báo Il Fatto Quotidiano của Ý nhân dịp 10 năm giáo hoàng, Đức Thánh Cha nói rằng làm Giáo hoàng không phải là một việc dễ dàng. Không ai đã học hỏi trước khi làm việc này. Ngài xin mọi người cầu nguyện khi nói về tương lai của Giáo hội và triều đại Giáo hoàng của ngài cho đến nay.
Đức Thánh Cha nhắc lại Thánh Phêrô đã “vấp ngã” thế nào khi chối bỏ Chúa Kitô. Nhưng sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô một lần nữa. Đức Thánh Cha giải thích: “Đó là lòng thương xót của Chúa đối với chúng ta. Cũng với Giáo hoàng. 'Servus inutilis sum - Tôi là một đầy tớ vô dụng’, như Thánh Phaolô VI đã viết trong tác phẩm ‘Những suy nghĩ về sự chết.’”
Chúa phán xét dự trên việc thực hành lòng thương xót
Về những hy vọng đối với tương lai của Giáo hội, thế giới và cuộc sống của chính ngài, Đức Thánh Cha cho biết “chương trình điều hành” trong triều đại giáo hoàng của ngài là thực hiện các yêu cầu của Hồng y đoàn, các cuộc họp diễn ra trước mật nghị bầu chọn ngài. Ngài cũng nói rằng vào năm 2013, ngài thường suy tư về một đoạn trích từ bài giảng Thánh lễ đầu tiên của Đức Biển Đức XVI. Ngài từ chối đánh giá triều đại Giáo hoàng của ngài cho đến nay. Ngài nói rằng, một ngày nào đó, Chúa sẽ phán xét cuộc đời của ngài dựa trên việc ngài có thực hành các công việc Thương xót Thể lý như Chúa Giêsu đã dạy hay không.
Hoà bình cho thế giới; Giáo hội không có chủ nghĩa giáo sĩ
Đối với thế giới, ngài cầu chúc hoà bình. Ngài cũng chỉ trích điều mà ngài gọi là “sự toàn cầu hóa của thái độ dửng dưng” trước những thảm kịch như chiến tranh.
Đức Thánh Cha mơ về tương lai của Giáo hội là một Giáo hội dấn thân đi ra thế giới và ở giữa mọi người, một Giáo hội không có chủ nghĩa giáo sĩ. Ngài trích lời Đức Hồng y Henrie de Lubac, đối với một linh mục, chủ nghĩa giáo sĩ “sẽ vô cùng tai hại hơn bất kỳ tính thế tục đạo đức.”
Xin cầu nguyện
Nói với độc giả của tờ báo, Đức Thánh Cha xin những lời cầu nguyện từ những người cầu nguyện và “những tình cảm tốt” từ những người không cầu nguyện. Ngài nói: “Giáo hoàng yêu quý các bạn và đang cầu nguyện cho các bạn.” Ngài nói thêm: “Ngay cả khi những điều tồi tệ xảy ra, ngay cả khi các bạn có kinh nghiệm tồi tệ về một người nào đó của Giáo hội, đừng để điều đó ảnh hưởng đến các bạn. Chúa luôn mở rộng vòng tay chờ đợi các bạn.”
Nguồn: vaticannews.va.vi
Bên cạnh những lời chúc mừng của các Hồng y, Giám mục cũng như của nhiều tổ chức Công giáo gửi đến Đức Thánh Cha nhân kỷ niệm 10 năm ngài kế vị Thánh Phêrô, cũng có lời chúc mừng và chia sẻ của các vị lãnh đạo các Giáo hội Chính Thống, Anh Giáo và Do Thái giáo ở Rôma, cũng như của Đại Giáo trưởng Hồi giáo.
Chính Thống giáo Constantinople
Trong lời chúc mừng, Đức Thượng phụ Bartolômêô của Chính Thống giáo Constantinople, viết: “Trong mười năm qua, tình bạn và sự hợp tác của chúng ta, đặc biệt là trong sứ vụ mang lại sự an ủi và bình an cho toàn thể dân Chúa, và trong nhiệm vụ cổ võ chăm sóc và chữa lành cho toàn thể công trình Sáng tạo của Chúa, đã đưa chúng ta đến với nhau trong niềm tin và sự dấn thân chung để nhìn thấy khuôn mặt và chào đón sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô nơi những anh chị em đau khổ bé nhỏ nhất của chúng ta.”
Đức Thượng phụ viết tiếp: “Cá nhân tôi mong muốn được chia sẻ những bước tiếp theo trong hành trình diễm phúc của ngài khi chúng ta tiến gần đến lễ kỷ niệm lịch sử và lễ kỷ niệm đặc biệt của Công đồng Đại kết đầu tiên Nixêa”. Và ngài cầu chúc Đức Thánh Cha với lời chúc “Ad multos annos - trường thọ!”
Anh giáo
ĐTC và Đức Tổng Giám mục Anh giáo Justin Welby
Về phần mình, Đức Tổng Giám mục Anh giáo của Canterbury, Justin Welby, đã nhắc lại lần đầu gặp gỡ Đức Thánh Cha. Ngài lo lắng vì vừa bắt đầu làm Giám mục Canterbury và chưa bao giờ gặp một Giáo hoàng, nên không biết Giáo hoàng là người thế nào. Bắt đầu cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha nói: “Tôi lớn hơn ngài...”, khi đó Đức Tổng Giám mục đã nghĩ: “Chết rồi! Ông ta sẽ là một trong những người...”. Nhưng Đức Thánh Cha đã nói thêm: “3 ngày!”. Bởi vì ngài bắt đầu sứ vụ trước Tổng Giám mục Welby 3 ngày. Sự khởi đầu câu chuyện này đã định hình những suy nghĩ của vị lãnh đạo Anh giáo về Đức Thánh Cha.
Đức Tổng Giám mục của Canterbury nhận định: “Ba điều này: khả năng phi thường về trí tuệ và tính cách, chiều sâu của trái tim và sự đơn sơ của ngài cho ngài tiếp cận với những người bên ngoài Giáo hội một cách phi thường, như Thánh Gioan Phaolô II đã làm. Nơi ngài có một sự sâu sắc, điều là phúc lành cho cả Giáo Hội chứ không riêng Giáo hội Công Giáo.”
Cộng đoàn Do Thái ở Rôma
ĐTC và ông Riccardo di Segni, lãnh đạo cộng đoàn Do Thái ở Rôma
Ông Riccardo di Segni, lãnh đạo cộng đoàn Do Thái ở Rôma, nói rằng “điều ước của tôi dành cho Đức Thánh Cha Phanxicô là ngài tiếp tục có nhiều sức khỏe, nhiều sức mạnh và trên hết là ngài có sự khôn ngoan và tiếp tục lãnh đạo cộng đồng của ngài bằng sức mạnh và sự khôn ngoan mà ngài đã có cho đến nay. Ngoài ra, mong ước ngài duy trì tình bạn đặc biệt mà ngài đã muốn có với người Do Thái.”
Hồi giáo
ĐTC và Đại Giáo trưởng Hồi giáo Ahmad Al-Tayyeb của Đại học al-Azhar
Đại Giáo trưởng Hồi giáo Ahmad Al-Tayyeb của Đại học al-Azhar, một người bạn của Đức Thánh Cha, đề cao nỗ lực của Đức Thánh Cha trong 10 năm qua, trong việc xây dựng những nhịp cầu yêu thương và tình huynh đệ giữa tất cả mọi người và những nỗ lực thúc đẩy các giá trị của tình huynh đệ nhân loại.
Ông viết tiếp: “Thưa Đức Thánh Cha Phanxicô, thế giới của chúng ta ngày nay đầy rẫy những thách thức, xung đột và khó khăn trên mọi bình diện đạo đức, kinh tế và xã hội, làm gia tăng sự đau khổ của nhiều người; vì vậy, trách nhiệm của những người lãnh đạo và của một nhân vật tiêu biểu nhất quán như ngài trong việc xoa dịu nỗi đau khổ của người dân và những người bị áp bức trở nên lớn lao. Tôi cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những nỗ lực của ngài trong việc theo đuổi hòa bình và giúp chúng tôi cùng với quý vị và tất cả những ai yêu mến điều thiện và những người có thiện chí chu toàn bổn phận tôn giáo và luân lý của chúng ta nhằm thúc đẩy hòa bình và củng cố sự hiểu biết và liên đới lẫn nhau.”
Nguồn: vaticannews.va/vi
Nhân ngày Quốc tế Phụ nữ, trên khắp thế giới diễn ra các cuộc tuần hành để bảo vệ nữ quyền, cho đến giờ vẫn bị xâm phạm ở nhiều nước.

Tuần hành nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ tại Melbourne, Úc, ngày 08/03/2023. REUTERS – SANDRA SANDERS
Trong ngày, có nhiều cuộc tập hợp biểu tình ở các thành phố lớn trên giới, trong đó có Madrid, Tây Ban Nha, nơi vẫn thường xuyên diễn ra các cuộc tuần hành khổng lồ trong dịp này. Ngoài việc biểu thị quyết tâm đấu tranh vì quyền bình đẳng giới, Ngày Quốc tế Phụ nữ năm nay là dịp để khắp nơi biểu lộ tình đoàn kết với thân phận của phụ nữ Afghanistan dưới chế độ Taliban hà khắc không có được một chút quyền cơ bản là tự do học hành và làm việc, với phong trào phản kháng của phụ nữ Iran sau cái chết của nữ sinh Mahsa Amini, nạn nhân của đạo luật hà khắc với phụ nữ. Đây cũng là dịp để phụ nữ khắp nơi trên thế giới bày tỏ sự cảm thông với phụ nữ Ukraina đang phải chịu đựng những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh.
Theo các nhà tổ chức, các cuộc biểu tình của phụ nữ đòi « bình đẳng trong công việc và trong đời sống » sẽ được tổ chức ở 150 thành phố. Trong khi ở nhiều nơi khác, các cuộc biểu tình nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ quốc tế đã bị chính quyền cấm.
Một trong những mục tiêu đấu tranh của phụ nữ ở nhiều nước trên thế giới hiện nay đòi được tự do nạo phá thai, một quyền đến nay vẫn bị cấm đoán, hoặc gây tranh cãi ở nhiều nước, kể cả những quốc gia phát triển và tự do như ở Mỹ, Hungary, Ba lan, hay Nhật Bản.
Thông tín viên RFI, Bruno Duval từ Tokyo ghi nhận :
Tại Nhật Bản, nạo thai không được bảo hiểm xã hội thanh toán và phải được sự đồng ý trước của người chồng. Việc nạo phá thai chỉ được phép làm qua phẫu thuật, việc dùng thuốc xổ thai vẫn chưa được chấp nhận.
Còn đối với tránh thai khẩn cấp, tức dùng «viên tránh thai ngay ». Thuốc này không được bảo hiểm thanh toán cũng như không được bán tự do ở các cửa hiệu dược phẩm, nhất thiết phải có đơn của bác sĩ. Mà đa số các phòng khám đều đóng cửa ngày cuối tuần, đây thực sự là vấn đề với các phụ nữ khi gặp phải hoàn cảnh khẩn cấp như vậy.
Tất cả những điều kiện như vậy khiến những phụ nữ ở Tokyo này cảm thấy sốc. Một phụ nữ cho biết : « Nạo thai phải được sự đồng ý của chồng là điều không thể chịu được. Thân thể là của chúng tôi, nên chúng tôi, những phụ nữ, phải được quyết định chứ. »
Một người khác nói thêm : « Sẽ tốt hơn nếu như Nhật là nước bớt lạc hậu hơn » . « Viên thuốc tránh thai ngay miễn phí không cần kê đơn bác sĩ giống như ở nhiều nước khác sẽ giúp giảm nhiều việc nạo phá thai. »
Còn một phụ nữ khác thì không ủng hộ đòi hỏi này : « Có lẽ cho tự do tiếp cận loại thuốc này sẽ làm cho phụ nữ không thấy hết trách nhiệm của mình, khiến chúng ta coi nhẹ và không lo lắng về việc tránh thai. »
Đó cũng là suy nghĩ của 9 trên 10 bác sĩ phụ khoa Nhật, theo các thăm dò dư luận. Và cũng là ý kiến chiếm đại đa số ở Nghị Viện Nhật, với thành phần 80% là nam giới. Sự mất cân bằng giới cũng tồn tại trong chính phủ, gồm 20 bộ trưởng, trong đó tất cả chỉ có 2 là phụ nữ.
https://conggiaoonline.com/phu-nu-khap-noi-tren-the-gioi-tuan-hanh-vi-nu-quyen/
Một số chủ đề nổi bật trong 10 năm triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô
Ngày 13/3/2023 là tròn 10 năm ngày Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu chọn làm giáo hoàng, kế vị thánh Phêrô lãnh đạo Giáo hội. Trên thực tế, trong quãng thời gian này, đã có rất nhiều vấn đề quan trọng, từ sự hoán cải cá nhân đến chủ nghĩa dân túy, đến sự mong manh của nền dân chủ, cuộc khủng hoảng lạm dụng, và những người bị gạt ra bên lề xã hội,… Tuy nhiên, trong số đó, có một số vấn đề nổi bật và là những ưu tiên rõ ràng hơn, bao quát hơn đối với Đức giáo hoàng Phanxicô.
Dưới đây là bài viết của Elise Ann Allen, ký giả tạp chí CruxNow về một số chủ đề nổi bật trong 10 năm triều Giáo Hoàng của Đức Phanxicô.
1. Một Giáo hội nghèo cho người nghèo
Cho đến nay, câu chuyện về việc Đức Thánh Cha Phanxicô chọn tước hiệu giáo hoàng của ngài đã được nhiều người biết đến. Đức Thánh Cha đã chia sẻ với báo vài ngày sau khi được bầu chọn làm giáo hoàng vào ngày 13/3/2013, rằng: Chính bạn của ngài, cố Hồng y Claudio Hummes người Brazil, đã gợi hứng để ngài chọn tước hiệu này.
Như Đức Phanxicô kể lại, khi mọi chuyện rõ ràng là ngài đã đắc cử, Đức Hồng y Hummes, người đang ngồi bên cạnh ngài, nói khẽ rằng, “đừng quên người nghèo”, và điều này đã truyền cảm hứng cho ngài chọn tước hiệu Phanxicô, theo tên của Thánh Phanxicô thành Assisi, được mệnh danh là “người nghèo thành Assisi”.
Ngay khi đắc cử, Đức giáo hoàng Phanxicô đã nói “Ôi, tôi muốn có một Giáo hội nghèo cho người nghèo biết bao”. Kể từ đó, điều này không chỉ trở thành một trong những khẩu hiệu nổi tiếng nhất của ngài, mà còn là cột trụ cho phong cách giáo hoàng và tầm nhìn của ngài đối với Giáo hội.
Từ bộ trang phục màu trắng đơn giản đến chiếc Fiat khiêm tốn mà Đức Thánh Cha sử dụng để đi loanh quanh; từ quyết định tự thanh toán hóa đơn khách sạn của mình sau cuộc bầu cử; từ việc ngài chọn ai để rửa chân vào mỗi Thứ Năm Tuần Thánh; từ việc dành ưu tiên cho phụ nữ, người di cư, người thiểu năng trí tuệ và tù nhân, đều cho thấy tinh thần khó nghèo ẩn dưới những hành động đó.
Vốn là người, mà khi còn là Tổng giám mục của Buenos Aires, thường xuyên đi tàu điện ngầm và rảo bộ trên dãy phố của những khu ổ chuột (villas miserias), Đức Thánh Cha đã luôn dành ưu tiên cho những người bên lề, rõ nét nhất là qua việc vận động nhân danh người di cư và người tị nạn, cũng như trong các chuyến tông du nước ngoài của ngài.
Ngay từ đầu, Đức Phanxicô đã cam kết đến thăm những quốc gia mà chưa có vị tiền nhiệm nào của ngài đến thăm, hoặc những quốc gia có vẻ nhỏ bé và không xứng tầm với một chuyến thăm của giáo hoàng, với một đoàn chiên Công giáo nhỏ bé, chẳng hạn như Bosnia và Herzegovina; Albania; Macedonia và Bungari; Georgia và Azerbaijan; và Myanmar và Bangladesh.
Trong các chuyến tông du quốc tế, Đức Thánh Cha luôn quan tâm đến việc gặp gỡ những thành phần dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, bao gồm cả các tù nhân; người di cư và người tị nạn; nạn nhân bị lạm dụng; trẻ em đường phố ở Philippines; Kitô hữu và các nhóm thiểu số bị bách hại ở Iraq; hoặc các nạn nhân chiến tranh ở Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan.
Giữa các chuyến đi, Đức Thánh Cha luôn chào đón những người nghèo đến Vatican để tham quan bảo tàng hoặc những bãi biển, và thường nâng đỡ những người khuyết tật về thể chất và tinh thần, yêu cầu để họ được phép lãnh nhận các Bí tích. Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót 2015-2016, Đức Thánh Cha đã đến thăm những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, bệnh tật và nghèo khó vào mỗi Thứ Sáu.
Có thể nói, tiêu chí “Lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo” của Đức Phanxicô được minh họa rõ hơn trong quyết định của ngài vào năm 2018 khi nâng cánh tay bác ái của ngài, Đức TGM Konrad Krajewski người Ba Lan, lên hàng Hồng y. Những người bị coi là ở bậc thấp nhất theo bậc thang giá trị xã hội, những người không thể tự biện hộ cho mình, đã và luôn ở trong số những ưu tiên hàng đầu của Đức Thánh Cha, và có thể sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai.
2. Khí hậu và môi trường
Song song với việc quan tâm, chăm sóc người nghèo và những người bị gạt ra bên lề xã hội, là sự bảo vệ của Đức Phanxicô đối với môi trường, vốn chịu sự ngược đãi mà ngài cho là yếu tố góp phần vào hàng loạt vấn đề, bao gồm cả vấn đề di cư, bênh vực cho điều gọi là “di cư khí hậu”, cũng như đại dịch Covid-19.
Đây là mối quan tâm nổi bật của Đức Phanxicô ngay từ đầu, rõ nét nhất là với việc ngài ban hành Thông điệp về sinh thái Laudato Si năm 2015, trong đó ngài mạnh mẽ lên án chủ nghĩa tiêu thụ và điều ngài gọi là những mô hình phát triển vô trách nhiệm, cảnh báo về những nguy cơ của biến đổi khí hậu, sự nóng lên toàn cầu, đồng thời kêu gọi thế giới hành động ngay lập tức.
Đức Thánh Cha đã nhiều lần lên tiếng ủng hộ các Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu toàn cầu như các cuộc họp COP, thậm chí ngài dự kiếnsẽ tham dự Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên Hiệp Quốc COP26 tại Glasgow vào tháng 11/2021, nhưng ngài đã không thể tham dự vì phải phẫu thuật đại tràng vài tháng trước đó.
Thượng Hội đồng Giám mục về Amazon năm 2019 chủ yếu tập trung vào các vấn đề môi trường, nhu cầu bảo vệ sự đa dạng sinh học của rừng nhiệt đới Amazon. Nhắm đến việc cứu khu rừng này khỏi nạn canh tác nương rẫy và các kỹ thuật khai thác xói mòn, lấn chiếm đất đai buộc nhiều người bản địa phải rời bỏ nhà cửa khi các công ty khai thác lấn sâu hơn vào khu rừng giàu khoáng sản.
Đức Thánh Cha cũng đã gặp gỡ nhà hoạt động khí hậu trẻ, Greta Thunberg, và ca ngợi “các cuộc đình công vì khí hậu” do nhóm giới trẻ của cô khởi xướng. Trong đại dịch Covid-19, ngài cho thấy phần lớn đó là do thói quen vô trách nhiệm với môi trường, đồng thời, ủng hộ việc phân phối vaccine một cách công bằng.
Ngoài ra, Đức Thánh Cha cũng kiên trì kêu gọi chấm dứt việc khai thác lục địa châu Phi - gần đây nhất là trong chuyến thăm Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan - cáo buộc các ngành công nghiệp khai thác hầm mỏ và các tập đoàn giàu có đã “cưỡng đoạt” đất đai đến mức không thể tu bổ và thu hoạch tất cả của cải cho mình, khiến người giàu càng giàu và người nghèo càng nghèo hơn.
Hình thức vận động này của Đức Thánh Cha là một trong những hình thức nổi bật nhất trong triều đại giáo hoàng của ngài, và rất có thể sẽ tiếp tục được tiến hành.
3. Hiệp hành tính
Một khái niệm quan trọng khác của Đức Phanxicô là “Hiệp hành tính”. Mặc dù nhiều người vẫn thấy khó định nghĩa, nhưng đây là một từ thông dụng bao hàm tầm nhìn của ngài về giáo hội toàn cầu, và đã trở thành một trong những khía cạnh nổi bật nhất của ngài.
Thật vậy, Đức Thánh Cha thường dùng từ “Hiệp hành” để diễn tả hình thức trao đổi hiệp đoàn trong đó cùng nhau đưa ra các quyết định. Dần dần, “Hiệp hành” thường được hiểu là một phong cách quản lý hợp tác và thỉnh vấn, trong đó tất cả các thành viên, giáo sĩ và giáo dân, đều tham gia vào việc đưa ra các quyết định về đời sống và sứ mạng của Giáo hội.
Từ Hiệp hành bắt đầu xuất hiện trong Thượng Hội đồng Giám mục về Giới trẻ năm 2018 và dần trở nên nổi bật đến mức trở thành chủ đề suy tư chính cho tiến trình thỉnh vấn nhiều giai đoạn kéo dài 4 năm trong Giáo hội hoàn vũ đang diễn ra như một phần của Thượng Hội đồng Giám mục về Hiệp hành.
Được đặc trưng bởi các giai đoạn khác nhau, bắt đầu từ các cuộc thỉnh vấn cấp giáo phận với giáo dân trong các giáo xứ, và chuyển sang giai đoạn Châu lục, trong đó các bản tóm tắt của các cuộc thỉnh vấn được thảo luận ở cấp độ rộng hơn. Tiến trình này đã bắt đầu vào năm 2021 và sẽ kết thúc với 2 cuộc họp của các giám mục ở Rôma, một cuộc họp diễn ra vào tháng 10 năm nay và cuộc họp tiếp theo được ấn định vào tháng 10/2024.
Mục tiêu chính của Thượng hội đồng về Hiệp hành là giúp cho Giáo hội trở thành một nơi cởi mở, chào đón và dung nạp hơn; nơi mọi người đều có tiếng nói, được lắng nghe, không ai cảm thấy bị bỏ rơi; và nơi các quyết định không được đưa ra từ trên cao bằng sắc lệnh, trái lại, được thực hiện với sự thỉnh vấn ý kiến của dân chúng.
Trên thực tế, Hiệp hành tính bao gồm một số ưu tiên chính của Đức Phanxicô, từ việc xóa bỏ giáo sĩ trị đến việc trao quyền cho giáo dân và giới trẻ, đồng thời đảm bảo rằng phụ nữ có vai trò lớn hơn trong Giáo hội, đặc biệt là vai trò lãnh đạo và ra quyết định.
Đối với Đức Thánh Cha, Hiệp hành tính là bản lề mà Giáo hội cần vận hành, và là quỹ đạo tự nhiên để thực hiện tầm nhìn của Công đồng Vatican II, đảm bảo rằng Giáo hội cởi mở, dung nạp, và nhất là, đón nhận ý kiến từ dân Chúa.
4. Kinh tế
Một điệp khúc rõ ràng và liên tục trong triều đại của Đức Phanxicô là sự chỉ trích công khai của ngài đối với chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, và sự ủng hộ dành cho hệ thống toàn cầu công bằng hơn, tập trung ít hơn vào lợi nhuận và nhiều hơn vào sự phân phối công bằng các nguồn lực để phục vụ công ích và có lợi cho người nghèo.
Đức Thánh Cha tin rằng nhiều cải cách xã hội mà ngài đang kêu gọi bắt đầu ở bình diện kinh tế, và đã kêu gọi những thay đổi lớn đối với hệ thống toàn cầu trong hầu hết các bài diễn văn và tài liệu quan trọng của ngài. Từ việc thúc giục các mô hình phát triển bền vững hơn trong Tông huấn Laudato Si, đến các lời kêu gọi cho một nền kinh tế châu Âu được đổi mới dựa trên sự hội nhập và phẩm giá con người khi ngài nhận Giải thưởng Charlemagne danh giá năm 2016. Trong bài diễn văn vào dịp này, Đức Thánh Cha đã đặt ra cụm từ “bà ngoại châu Âu” nhằm nói rằng Châu lục đã quên đi những lý tưởng sáng lập của mình và trở nên mệt mỏi và đang rất cần sức sống mới. Đồng thời, ngài mời gọi các nhà lãnh đạo chuyển “từ một nền kinh tế thiếu bền vững sang một nền kinh tế xã hội”, bớt hướng vào doanh thu, và đầu tư nhiều hơn vào con người, và chống tham nhũng.
Thông điệp Fratelli Tutti năm 2020 về tình bằng hữu xã hội cũng mang nhiều âm hưởng tương tự. Một đàng, chứa đựng những lời chỉ trích mạnh mẽ đối với chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa tự do, và chủ nghĩa tư bản thị trường tự do. Đàng khác, ủng hộ nhiệt tình các nỗ lực và chính sách đa phương dành ưu tiên cho những người dễ bị tổn thương nhất, bao gồm cả người di cư và người tị nạn.
Đức Thánh Cha cũng tìm cách huy động những người trẻ tham gia sự kiện “Nền kinh tế Phanxicô” được tổ chức tại Assisi vào năm 2022. Sự kiện đã thu hút các nhà kinh tế trẻ và những người tạo ra sự thay đổi từ khắp nơi trên thế giới để thảo luận về tiến trình chuyển đổi sang một nền kinh tế hòa bình và công bằng hơn, ưu tiên cho người nghèo và môi trường. Ban đầu được ấn định vào năm 2020 nhưng đã bị dời lại do đại dịch Covid-19, với hầu hết các cuộc thảo luận và phiên làm việc trước đó đều được tổ chức trực tuyến. Tuy nhiên, khoảng 1.000 người trẻ đã tham dự cuộc họp trực tiếp và đã ký một Hiệp ước với Đức Thánh Cha, trong đó vạch ra tầm nhìn về một nền kinh tế “hòa bình chứ không phải chiến tranh”, và được hướng dẫn bởi một tập hợp rõ ràng về đạo đức dành ưu tiên đối với phẩm giá con người và người nghèo.
Mặc dù Hiệp hành tính đóng vai trò quan trọng hơn trong khoảng một năm qua, nhưng việc thúc đẩy chuyển đổi hệ thống kinh tế toàn cầu của Đức Thánh Cha vẫn là ưu tiên hàng đầu.
5. Hoán Cải Mục Vụ
Cho đến nay, có lẽ chủ đề quan trọng nhất đối với Đức Thánh Cha là việc thúc đẩy việc hoán cải mục vụ.
Từ những bài diễn văn dài hằng năm trước Giáo triều Roma, đến các tài liệu quan trọng, các buổi tiếp kiến và phát biểu trước công chúng, Đức Thánh Cha liên tục kêu gọi các tín hữu hoán cải cá nhân, đồng thời thúc giục Giáo hội và các mục tử cũng làm như vậy.
Ngay từ những ngày đầu, Đức Thánh Cha đã thúc đẩy sự hoán cải này bằng cách nhắc nhở việc Giáo hội vẫn “đóng kín” trong chính mình, và bày tỏ mong muốn về “một Giáo hội đi ra” tiếp xúc với người dân và nhu cầu của họ thay vì bị ám ảnh bởi những cuộc tranh luận nội bộ tầm thường.
Chiến lược mục vụ của Đức Thánh Cha nhằm mục đích giúp Giáo hội trở thành “bệnh viện dã chiến dành cho người bệnh” mà ngài thường ủng hộ, thay vì một câu lạc bộ dành riêng cho giới thượng lưu được xem là những người tuân theo mọi quy tắc và chấp nhận mọi học thuyết.
Mong muốn hoán cải mục vụ này có thể thấy trong các bài diễn văn hằng năm trước Giáo triều Rôma, mà trong thập niên qua, Đức Phanxicô đã sử dụng như cơ hội để tiến hành một cuộc xét mình tập thể về ý thức, chẩn đoán một số “căn bệnh” thiêng liêng mà ngài nói rằng Giáo hội đang mắc phải, và đưa ra các biện pháp khắc phục luôn nhấn mạnh đến nhu cầu hoán cải.
Đức Thánh Cha muốn cơ quan quản trị trung tâm của Giáo hội và Hồng y đoàn mang tính quốc tế và đa dạng hơn, đồng thời tập trung hơn vào việc loan báo Tin Mừng. Mong muốn này được chứng minh không chỉ bởi những vị mà Đức Thánh Cha thăng làm Hồng y trong những năm qua, mà còn qua những tài liệu quan trọng như Tông huấn đầu tiên năm 2013, Evangelii Gaudium (Niềm Vui của Tin Mừng), trong đó ngài mời gọi các tín hữu trở thành “các môn đệ thừa sai” yêu mến Tin Mừng; Tông hiến năm ngoái về cải cách Giáo triều Rôma, Praedicate evangelium (Hãy rao giảng Tin Mừng), trong đó ngài đưa ra những thay đổi sâu rộng đối với giáo triều, lập ra một ban đặc biệt dành riêng cho việc loan báo Tin Mừng, và cho phép giáo dân nắm giữ những vai trò nổi bật hơn trong vai trò lãnh đạo.
Đức Thánh Cha không ngừng mời gọi Giáo hội trở nên nhân từ hơn, bớt thời gian cho các cuộc tranh luận thần học và dành nhiều thời gian hơn để tiếp cận những người bị thương và đau khổ. Đây là kết quả của Năm Thánh Lòng Thương Xót, trong đó Đức Thánh Cha cho phép tất cả các linh mục được tha tội phá thai và mở rộng khả năng tiếp cận với các ân xá, và đó là yếu tố thúc đẩy đằng sau quyết định của ngài trong chú thích số 351 của Tông huấn Amoris Laetitia, được ban hành hậu Thượng Hội đồng Giám mục năm 2014 và 2015 về gia đình, trong đó Đức Thánh Cha cho phép thận trọng mở ra đối với những người Công giáo ly dị và tái hôn được rước lễ. Đó cũng là động lực đằng sau việc ngài hợp thức hóa thủ tục hủy hôn, và cũng là một yếu tố quan trọng trong Thượng Hội đồng Giám mục về Hiệp hành hiện nay.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha coi nhiệm vụ của ngài là canh tân Giáo hội để Giáo hội mở ra với thế giới và biến lòng thương xót và việc rao giảng Tin Mừng trở thành động lực đằng sau mọi hoạt động của Giáo hội. Đồng thời, một cách cơ bản là thực hiện tầm nhìn của Công đồng Vatican II, cũng như xóa bỏ những gì có thể gây trở ngại cho tiến trình này.
Hoán cải mục vụ là chìa khóa cho tất cả, đó là điều cần thiết để thực hiện tầm nhìn của Đức Thánh Cha, và điều này có thể sẽ vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu của ngài trong phần còn lại của triều đại giáo hoàng.
Tác giả: Elise Ann Allen - Nguồn: cruxnow.com (03/3/2023)
Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP - Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Nicaragua đóng cửa Đại học Công giáo Gioan Phaolô II và cấm Caritas hoạt động
Chính quyền Nicaragua đã huỷ bỏ tư cách pháp nhân của tổ chức bác ái Caritas của Giáo hội Nicaragua và đóng cửa hai Đại học Công giáo tại nước này là Đại học Juan Pablo II và Đại học Cristiana Autónoma de Nicaragua.
Bộ Nội vụ đã ra lệnh cho các trường đại học này bàn giao thông tin về sinh viên, tuyển sinh và hồ sơ học tập cho Hội đồng các trường đại học quốc gia.
Đại học Juan Pablo II thuộc Hội đồng Giám mục Nicaragua, được thành lập vào năm 1993 theo sáng kiến của Caritas, có chức năng như một trung tâm giáo dục cao cấp và giáo dục đại học và sau đại học.
Theo Công báo, tư cách pháp nhân của Caritas Nicaragua cũng đã bị hủy bỏ: “Vào ngày 31 tháng 1 năm 2023, với đạo luật 79 của Đại hội đồng bất thường của các thành viên của Caritas Nicaragua, họ đã đồng ý về việc tự nguyện giải thể và thanh lý tổ chức này.” Kể từ năm 2019, Caritas ở Nicaragua không còn có thể nhận viện trợ quốc tế và thực hiện công việc xã hội và mục vụ của mình.
Phê bình của Liên Hiệp quốc
Chỉ vài ngày trước, trong một báo cáo, Liên Hiệp quốc đã tố cáo những vi phạm liên tục về nhân quyền và đàn áp các quyền tự do dân chủ ở Nicaragua: “Tình hình nhân quyền tiếp tục xấu đi trong những tháng đầu năm 2023” và “Chính phủ đang vi phạm nhân quyền trên diện rộng, cấu thành tội ác có động cơ chính trị chống lại loài người đối với thường dân.”
Liên Hiệp quốc đã yêu cầu chính phủ Ortega chấm dứt các hành vi ngược đãi và trả tự do cho 37 người “vẫn bị tước đoạt tự do một cách tùy tiện” trong đó có Đức cha Rolando Álvarez, giám mục của Matagalpa, hiện chưa rõ tình trạng sức khỏe. Đức cha đã bị tòa án Nicaragua kết án 26 năm tù sau khi từ chối rời khỏi đất nước cùng với các linh mục và các đối thủ chính trị khác.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày thứ ba 7 tháng 3, Đức Phanxicô bổ nhiệm 9 hồng y để giúp ngài trong việc điều hành Giáo hội. Hồng y người Đức Reinhard Marx không được gia hạn. Hồng y Jean-Claude Hollerich, tổng giám mục giáo phận Luxembourg, trụ cột Thượng hội đồng hiệp hành được bổ nhiệm vào Hội đồng các Hồng y trong 5 năm.
Hồng y Jean-Claude Hollerich, tổng giám mục Luxembourg và Đức Phanxicô, tháng 6 năm 2021, ngài là thành viên mới của Hội đồng các Hồng y. VATICAN MEDIA/HO/EPA/MAXPPP
Vài ngày trước ngày kỷ niệm 10 năm triều giáo hoàng Phanxicô, ngày thứ ba 7 tháng 3, Đức Phanxicô đã bổ nhiệm năm hồng y vào “Hội đồng các Hồng y” mới, những người giữ trách nhiệm cố vấn cho ngài. Tổng cộng, chín hồng y đã được Đức Phanxicô chọn, trong số này có năm tân hồng y vừa được bổ nhiệm.
Hồng y Dòng Tên Jean-Claude Hollerich, tổng giám mục Luxembourg, tổng tường trình của Thượng hội đồng hiệp hành lần đầu tiên được bổ nhiệm vào Hội đồng này, Hội đồng trung bình họp một năm bốn lần với Đức Phanxicô. Ngài là hồng y thân cận với Đức Phanxicô, là một trong những nhân vật chủ chốt đóng vai trò quan trọng trong việc suy tư toàn cầu về tương lai của Giáo hội, được Đức Phanxicô thành lập vào tháng 10 năm 2021.
Những người thân cận khác của Đức Phanxicô trong Hội đồng có biệt danh là “C9” là hồng y Gérard Lacroix (Québec, Canada), hồng y Sérgio da Rocha, tổng giám mục Salvador, Bahia và là người đứng đầu Giáo hội Brazil, hồng y Juan José Omella, tổng giám mục Barcelona, chủ tịch Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha, ngài được một số người xem là ứng viên nghiêm túc nếu có mật nghị. Đôi khi hồng y Omella có biệt danh là “Phanxicô Tây Ban Nha” vì sự gắn bó của ngài với các định hướng xã hội. Và cuối cùng là hồng y Fernando Vérgez Alzaga, Chủ tịch Chính phủ của Thành quốc Vatican.
Hồng y Reinhard Marx ra đi
Hồng y Giuseppe Bertello hết nhiệm kỳ. Hồng y Óscar Maradiaga, giáo phận Tegucigalpa, Hondura cũng hết nhiệm kỳ vì lý do tuổi tác. Hồng y Reinhard Marx, 69 tuổi ra đi với nhiều chú ý. Là tổng giám mục đầy quyền uy của Munich, là chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức từ năm 2014 đến năm 2020, ngài đã gởi đơn từ chức tháng 5 năm 2021 vì cho rằng mình đã xử lý sai các trường hợp lạm dụng tình dục, nhưng giáo hoàng từ chối đơn từ chức của hồng y.Hồng y Marx cũng là một trong những nhân vật rường cột của Con đường đồng nghị Đức. Rôma đã không đánh giá cao con đường này – kể cả giáo hoàng -, vì những định hướng được cho là không tương thích với sự thống nhất của Giáo hội, đặc biệt là trong lãnh vực đạo đức.
Đức Phanxicô giữ lại bốn hồng y, được xem là những tiếng nói quan trọng của Giáo hội công giáo ngày nay: hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, hồng y Fridolin Ambongo, tổng giám mục Kinshasa, được xem là đại diện cho châu Phi trong Hội đồng C9, hồng y Oswald Gracias, tổng Giám mục Bombay, là thành viên châu Á duy nhất của Hội đồng và hồng y Sean O’Malley, tổng giám mục Boston, ngài là tu sĩ dòng Phanxicô đặc biệt tận tụy trong cuộc chiến chống lại bạo lực tình dục trong Giáo hội.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch(phanxico.vn)
Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 8/3/2023, Đức Thánh Cha đã trình bày với các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô bài giáo lý về chủ đề: Loan báo Tin Mừng là việc phục vụ của Giáo hội. Dựa trên sắc lệnh Ad gentes - Đến với Muôn dân - của Công đồng chung Vatican II, Đức Thánh Cha nói rằng mỗi người được rửa tội có vai trò độc nhất trong việc loan báo Tin Mừng và việc loán báo này là sứ vụ của Giáo hội, được thực hiện với tư cách là Giáo hội.
http://giaophanthanhhoa.net/giao-ly/dtc-phanxico-%7Ctiep-kien-chung-08032023%7C-moi-nguoi-duoc-rua-toi-tham-gia-vao-su-mang-cua-giao-hoi-41777.html
Đức Thánh Cha nhận định rằng lòng nhiệt thành truyền bá Tin Mừng không thể tách rời khỏi chiều kích Giáo hội, vì đây là chiều kích bảo vệ sứ điệp Kitô giáo khỏi bị bóp méo và khỏi bị chạy theo những lợi ích và lối suy nghĩ trần tục.
Dựa trên Sắc lệnh Ad Gentes của Công đồng Vatican II về Hoạt động Truyền giáo của Giáo hội, trong đó trình bày mọi công cuộc truyền giáo đều bắt nguồn từ tình yêu bao la của Thiên Chúa là Cha chúng ta, được tuôn đổ trên thế giới qua các sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và được kéo dài trong sứ mạng loan báo của Giáo hội, Đức Thánh Cha nhắc các tín hữu rằng là “những môn đệ truyền giáo”, tất cả những người đã được rửa tội đều được mời gọi theo gương tình yêu hy sinh quên mình của Chúa Kitô bằng cách làm chứng một cách sáng tạo và thuyết phục cho sự thật và sức mạnh hòa giải của lời Người, không chỉ cho cá nhân mà còn cho cuộc sống của toàn thể gia đình nhân loại chúng ta.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong bài giáo lý trước, chúng ta đã thấy rằng “công đồng” đầu tiên trong lịch sử Giáo hội đã được triệu tập tại Giêrusalem vì một vấn đề liên quan đến việc rao giảng Tin Mừng, nghĩa là loan báo Tin Mừng cho những người không phải là người Do Thái. Vào thế kỷ XX, Công đồng chung Vatican II đã trình bày Giáo hội như Dân Chúa lữ hành trong thời gian và vì bản chất truyền giáo của Giáo hội (x. Sắc lệnh Ad Gentes, 2). Có một cầu nối giữa Công đồng đầu tiên và Công đồng cuối cùng, về việc loan báo Tin Mừng, một cây cầu mà kiến trúc sư là Chúa Thánh Thần. Hôm nay chúng ta lắng nghe Công đồng Vatican II để khám phá ra rằng việc rao giảng Tin Mừng luôn là một công việc phục vụ của Giáo hội, không bao giờ được thực hiện cách đơn độc, không bao giờ biệt lập hay theo chủ nghĩa cá nhân. Việc loan báo Tin Mừng luôn được thực hiện trong Giáo hội, nghĩa là trong cộng đồng và không chiêu dụ tín đồ bởi vì đó không phải là truyền giáo.
Đảm bảo tính xác thực của lời loan báo của Kitô giáo
Thật vậy, người loan báo Tin Mừng luôn truyền đạt những gì mình đã nhận được. Thánh Phaolô là người đầu tiên viết điều đó: Tin Mừng mà ngài loan báo và các cộng đoàn đã đón nhận và họ nắm vững, cũng chính là Tin Mừng mà chính Thánh Tông Đồ đã đón nhận (x. 1Cr 15,1-3). Chúng ta lãnh nhận đức tin và loan truyền đức tin. Tính năng động của Giáo hội trong việc truyền tải Thông điệp này là điều ràng buộc và đảm bảo tính xác thực của lời loan báo của Kitô giáo. Chính Thánh Phaolô viết cho tín hữu Galát: “Nếu chính chúng tôi hoặc một thiên thần từ trời xuống loan báo cho anh em một Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi” (1,8).
Tránh cám dỗ tìm những điều dễ dàng nhưng thứ yếu
Do đó, chiều kích Giáo hội của người loan báo Tin Mừng tạo nên một tiêu chuẩn để kiểm chứng lòng nhiệt thành tông đồ. Một xác minh cần thiết, bởi vì cám dỗ thực hành “một mình” luôn rình rập, đặc biệt là khi con đường trở nên khó khăn và chúng ta cảm thấy sức nặng của sự dấn thân. Cũng nguy hiểm không kém là cám dỗ đi theo những con đường giả dạng giáo hội và dễ dàng hơn, chấp nhận lối lý luận của thế gian về những con số và khảo sát, dựa vào sức mạnh của những ý tưởng, chương trình, cơ cấu của chúng ta, “những mối quan hệ quan trọng.” Điều này là không đúng; nó giúp đỡ một chút nhưng điều chính yếu là cái khác. Đó là sức mạnh mà Chúa Thánh Thần ban cho anh chị em để loan báo sự thật về Chúa Giêsu Kitô, để loan báo Tin Mừng. Những thứ khác chỉ là thứ yếu.
Sắc lệnh Ad Gentes
Tiếp tục bài giáo lý Đức Thánh Cha mời gọi: Giờ đây, thưa anh chị em, chúng ta hãy tham dự trực tiếp hơn vào trường học của Công đồng Vatican II, bằng cách đọc lại một số điểm của Sắc lệnh Ad Gentes (AG) - Đến với Muôn dân, văn kiện về hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Những văn bản này hoàn toàn vẫn còn nguyên giá trị của chúng ngay cả trong bối cảnh phức tạp và đa dạng của chúng ta.
Tình yêu của Chúa Cha dành cho mọi người
Trước hết, Sắc lệnh Đến với Muôn dân mời gọi chúng ta hãy xem tình yêu của Thiên Chúa Cha là nguồn mạch, tình yêu mà “vì lòng nhân từ thương xót vô biên tạo dựng chúng ta và vì ân sủng, mời gọi chúng ta tham dự vào sự sống và vinh quang của Người. Người đã rộng rãi tuôn ban và còn không ngừng tuôn ban lòng nhân từ, đến độ như là Đấng tác tạo muôn loài, cuối cùng Người trở nên “tất cả trong mọi loài” (1Cr 15,28), để Người được vinh hiển và đồng thời chúng ta được hạnh phúc. (số 2). Đoạn văn này là cơ bản, bởi vì nó nói rằng tình yêu của Chúa Cha dành cho mọi người. Tình yêu của Chúa không chỉ dành cho một nhóm nhỏ, không, nó dành cho tất cả mọi người. Hãy ghi nhớ thật kỹ điều này trong tâm trí anh chị em: tất cả mọi người, không loại trừ ai, Chúa phán như vậy. Và tình yêu này dành cho mọi người, là tình yêu dành cho mọi người nam nữ qua sứ mạng của Chúa Con, Đấng trung gian cứu rỗi và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta (x. AG, 3), và nhờ sứ mạng của Chúa Thánh Thần (x. AG, 4), Đấng hoạt động trong mỗi người, cả người đã rửa tội lẫn người chưa rửa tội.
Giáo hội trung thành với con đường của Chúa Kitô
Hơn nữa, Công đồng nhắc lại rằng nhiệm vụ của Giáo hội là tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô, Đấng “đã được sai đến rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, vì thế - Sắc lệnh nói tiếp - điều cần thiết là Giáo hội, luôn luôn dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Chúa Kitô, cũng phải tiến bước trên chính con đường Chúa Kitô đã đi, con đường của nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân mình đến độ sẵn lòng chịu chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người (AG, 5). Nếu Giáo hội vẫn trung thành với "con đường" này, nếu chúng ta vẫn trung thành với con đường này, thì sứ mạng của Giáo hội là “sự biểu lộ hay nói cách khác là sự hiển linh ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần gian và trong lịch sử nhân loại” (AG, 9).
Mỗi người đã được rửa tội là một chủ thể tích cực của việc rao giảng Tin Mừng
Anh chị em thân mến, những gợi ý ngắn gọn này cũng giúp chúng ta hiểu chiều kích Giáo hội của lòng nhiệt thành tông đồ của mỗi môn đệ truyền giáo. Lòng nhiệt thành tông đồ không phải là một sự nhiệt tình, nó là một cái gì khác, nó là một ân sủng của Thiên Chúa mà chúng ta phải gìn giữ bởi vì nơi Dân Chúa lữ hành và loan báo Tin Mừng không có những chủ thể tích cực hay thụ động. “Mỗi người đã được rửa tội, bất kể chức năng của họ trong Giáo hội và trình độ giáo dục về đức tin của họ, là một chủ thể tích cực của việc rao giảng Tin Mừng” (Tông huấn Evangelii gaudium, 120). Nếu bạn không loan báo Tin Mừng, nếu bạn không làm chứng, nếu bạn không làm chứng về Phép Rửa mà bạn đã lãnh nhận, về đức tin mà Chúa đã ban cho bạn, thì bạn không phải là một Kitô hữu tốt.
Tìm kiếm những cách thức mới để loan báo Tin Mừng
Nhờ phép Rửa tội đã lãnh nhận và từ đó được tháp nhập vào Giáo hội, mọi người đã được rửa tội tham dự vào sứ vụ của Giáo hội, và theo cách này, tham dự vào sứ vụ của Chúa Kitô Vua, Tư tế và Ngôn sứ. Sứ vụ này “là duy nhất và không thay đổi ở mọi nơi và trong mọi tình huống, ngay cả khi nó không được thực hiện theo cùng một cách do những hoàn cảnh khác nhau” (AG, 6). Điều này mời gọi chúng ta đừng trở nên cứng nhắc hoặc hóa đá; lòng nhiệt thành truyền giáo của người tín hữu cũng được diễn tả như một cuộc tìm kiếm sáng tạo những cách thức mới để loan báo và làm chứng, những cách thức mới để gặp gỡ nhân loại bị tổn thương mà chính Chúa Kitô đã mang lấy. Tóm lại, những cách thức mới để phục vụ Tin Mừng và phục vụ nhân loại. Loan báo Tin Mừng là một việc phục vụ. Nếu một người tự gọi mình là người rao giảng Tin Mừng mà không có thái độ đó, tấm lòng đó của người tôi tớ, và tin rằng mình là ông chủ, thì người đó không phải là người rao giảng Tin Mừng; họ là một người đáng thương.
Đón nhận và chia sẻ
Trở về với suối nguồn tình yêu của Chúa Cha và sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần không đóng kín chúng ta trong những không gian tĩnh lặng cá nhân. Trái lại, nó dẫn chúng ta đến chỗ nhận ra tính nhưng không của món quà sự sống viên mãn mà chúng ta được mời gọi, một hồng ân mà chúng ta ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa, đồng thời dẫn chúng ta đến việc sống trọn vẹn hơn bao giờ hết những gì chúng ta đã lãnh nhận và chia sẻ nó với những người khác, với tinh thần trách nhiệm và cùng nhau đi trên những con đường, đôi khi quanh co và khó khăn của lịch sử, trong khi chờ đợi sự viên mãn của nó trong sự tỉnh thức và chuyên cần.
Buổi tiếp kiến kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành Đức Thánh Cha ban cho các tín hữu.
Hồng Thủy - Vatican News
Mười năm của triều đại giáo hoàng Phanxicô trong những nét khái quát
https://gpcantho.com/muoi-nam-cua-trieu-dai-giao-hoang-phanxico-trong-nhung-net-khai-quat/
Vũ Văn An
Ngày 13 tháng này, Đức Phanxicô sẽ kỷ niệm chẵn 10 năm được bầu làm giáo hoàng, nhân dịp này, Elise Ann Allen của tạp chí mạng CruxNow có bài viết về những nét khái quát trong 10 năm qua của triều Giáo Hoàng Phanxicô:
Về hầu như mọi vấn đề có tầm quan trọng hiện đại – từ sự hoán cải bản thân qua chủ nghĩa dân túy duy dân tộc, đến sự mong manh của nền dân chủ, cuộc khủng hoảng lạm dụng và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội – Đức Giáo Hoàng Phanxicô đều có điều gì đó để nói trong suốt mười năm tại vị của ngài.
Tuy nhiên, trong số đó, có một số vấn đề nổi bật như là các ưu tiên rõ ràng hơn, bao quát hơn đối với vị giáo hoàng này, những vấn đề mà nếu bạn nhìn một cách khái quát, sẽ tạo thành xương sống cho phần lớn các lối nói hoa mỹ và chính sách của ngài trong thập niên qua.
Dưới đây là bản tóm tắt năm chủ đề được cho là hàng đầu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
Một Giáo Hội nghèo cho người nghèo
Đến nay, câu chuyện về việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô chọn danh hiệu giáo hoàng của mình đã được nhiều người biết đến. Ngài đã nói chuyện với các nhà báo chỉ vài ngày sau khi được bầu làm giáo hoàng vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, khi nói rằng chính người bạn của ngài, cố Hồng Y người Batây Claudio Hummes, là người đã truyền cảm hứng cho khẩu hiệu đó.
Như Đức Giáo Hoàng đã kể lại, một khi rõ ràng ngài đã được bầu, Đức Hồng Y Hummes, người đang ngồi bên cạnh ngài, thì thầm, “đừng quên người nghèo” và điều này đã truyền cảm hứng cho vị giáo hoàng tân cử chọn tên Phanxicô, theo tên của Thánh Phanxicô thành Assisi, được mệnh danh là “người nghèo thành Assisi.”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói vào dịp đó: “Vâng, tôi muốn có một Giáo Hội nghèo cho người nghèo biết bao”. Kể từ đó, đây không những trở thành một trong những khẩu hiệu nổi tiếng nhất của ngài trong 10 năm qua, mà nó còn trở thành xương sống cho phong cách giáo hoàng và viễn kiến của ngài đối với Giáo Hội.
Từ bộ trang phục màu trắng đơn giản đến chiếc Fiat khiêm tốn mà ngài dùng đi đó đây, từ quyết định thanh toán hóa đơn khách sạn của chính ngài sau cuộc bầu cử và việc ngài chọn ai để rửa chân vào mỗi Thứ Năm Tuần Thánh, dành ưu tiên cho phụ nữ, người di cư, người khuyết tật trí thức và tù nhân, một tinh thần khó nghèo đã nằm ở bên dưới tất cả.
Là một người, khi còn là tổng giám mục của Buenos Aires, thường xuyên đi tàu điện ngầm và đi bộ trên đường phố của những villas miserias [căn hộ khốn cùng], ngài đã luôn dành ưu tiên cho những người bên lề, nổi bật nhất là qua việc vận động nhân danh người di cư và người tị nạn, và trong các chuyến tông du nước ngoài của ngài.
Ngay từ đầu, Đức Phanxicô đã cam kết đến thăm các quốc gia mà chưa có vị giáo hoàng nào khác đến thăm, hoặc những quốc gia có vẻ nhỏ bé và không xứng đáng với một chuyến thăm của một vị giáo hoàng, với một đoàn chiên Công Giáo nhỏ bé, chẳng hạn như Bosnia và Herzegovina; Albania; Maxêđônia và Bungari; Gruzia và Adécbaigian; và Myanmar và Bangladesh.
Trong các chuyến tông du quốc tế của mình, ngài luôn quan tâm đến việc gặp gỡ những thành phần dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, bao gồm cả các tù nhân; người di cư và người tị nạn; nạn nhân bị lạm dụng; trẻ em đường phố ở Phi luật tân; Kitô hữu bị bách hại và các nhóm thiểu số khác ở Iraq; hay các nạn nhân chiến tranh ở Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan.
Giữa các chuyến đi, ngài luôn chào đón những người nghèo đến Vatican để tham quan bảo tàng hoặc những ngày bãi biển, và thường ủng hộ những người khuyết tật về thể chất và phát triển, yêu cầu để họ được phép lãnh nhận các bí tích. Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót 2015-2016, ngài đến thăm những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, bệnh tật và nghèo khó vào mỗi Thứ Sáu.
Chính sách ‘ưu tiên chọn người nghèo’ của ngài, như có thể gọi như thế, được minh họa thêm trong quyết định của ngài vào năm 2018 khi nâng người phát chẩn của ngài lên hàng Hồng Y, Đức Hồng Y người Ba Lan Konrad Krajewski. Những người bị tri nhận như chiếm bậc thấp nhất trên thang xã hội, những người không thể biện hộ cho chính họ, đã và luôn nằm trong số những ưu tiên hàng đầu của ngài, và họ sẽ tiếp tục như thế trong tương lai.
Khí hậu và môi trường
Song song với việc quan tâm và chăm sóc người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội là sự ủng hộ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đối với môi trường, sự ngược đãi mà ngài cho là yếu tố góp phần vào một loạt vấn đề, bao gồm cả vấn đề di dân, vận động cho điều gọi là “di dân khí hậu,” cũng như đại dịch coronavirus.
Đây là mối quan tâm nổi bật của Đức Phanxicô ngay từ đầu, nổi bật nhất là với việc công bố Thông điệp sinh thái Laudato Si năm 2015, trong đó Đức Giáo Hoàng lên án mạnh mẽ chủ nghĩa tiêu dùng và điều, theo ngài, là các mô hình phát triển vô trách nhiệm, đồng thời cảnh báo về những nguy cơ của việc biến đổi khí hậu và sự nóng lên của hoàn cầu, đồng thời kêu gọi thế giới hành động ngay lập tức.
Ngài đã nhiều lần lên tiếng ủng hộ các hội nghị thượng đỉnh về khí hậu hoàn cầu nổi tiếng như các cuộc họp COP [Hội nghị các bên] và thậm chí còn dự kiến tham dự hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên Hợp Quốc COP26 tại Glasgow vào tháng 11 năm 2021, nhưng đã không thể tham dự. Ngài đã phẫu thuật đại tràng vài tháng trước đó.
Thượng Hội đồng Giám mục năm 2019 của Đức Phanxicô về Amazon chủ yếu tập trung vào các vấn đề môi trường và nhu cầu bảo vệ sự đa dạng sinh học của rừng nhiệt đới Amazon và cứu nó khỏi nạn canh tác nương rẫy và các kỹ thuật khai thác xói mòn lấn chiếm đất đai bản địa, buộc nhiều người phải rời bỏ nhà cửa của họ khi các công ty khai thác sâu hơn vào khu rừng giàu khoáng sản.
Đức Giáo Hoàng cũng đã gặp gỡ nhà hoạt động khí hậu trẻ tuổi Greta Thunberg và ca ngợi “các cuộc đình công khí hậu” do giới trẻ của cô thúc đẩy, và trong đại dịch COVID-19, ngài đổ lỗi phần lớn cho thói quen vô trách nhiệm với môi trường và ủng hộ việc phân phối vắc xin một cách công bằng.
Ngài cũng nhất quán kêu gọi chấm dứt việc khai thác lục địa châu Phi – gần đây nhất là trong chuyến viếng thăm Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan – cáo buộc các ngành công nghiệp khai thác và các tập đoàn giàu có đã “cưỡng hiếp” đất đai đến không còn sửa chữa được và thu hoạch tất cả của cải cho mình, khiến người giàu càng giàu và người nghèo càng nghèo hơn.
Hình thức vận động này của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là một trong những hình thức nổi bật nhất trong triều đại giáo hoàng của ngài, và rất có thể sẽ tiếp tục được tiến hành.
Tính đồng nghị
Một khái niệm quan trọng khác trong 10 năm tại vị của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là “tính đồng nghị”, một từ ngữ thông dụng trong triều đại giáo hoàng của ngài, mặc dù nhiều người vẫn khó định nghĩa, bao hàm viễn kiến của ngài đối với giáo hội hoàn cầu và đã trở thành một trong những khía cạnh đương thời nổi bật nhất của triều giáo hoàng này.
Đức Phanxicô luôn sử dụng hạn từ “tính đồng nghị” để diễn tả một kiểu trao đổi tập thể và thẳng thắn nào trong đó các quyết định được cùng nhau đưa ra.
Theo thời gian, “tính đồng nghị” thường được hiểu là một phong cách quản lý hợp tác và tư vấn, trong đó tất cả các thành viên, giáo sĩ và giáo dân, tham gia vào việc đưa ra các quyết định về đời sống và sứ mệnh của Giáo hội.
Hạn từ này bắt đầu xuất hiện trong Thượng Hội đồng Giám mục năm 2018 của Đức Giáo Hoàng về giới trẻ và đã trở nên nổi bật đến mức nó trở thành chủ đề suy tư chính cho quá trình tham vấn nhiều giai đoạn kéo dài 4 năm trong Giáo hội hoàn cầu đang diễn ra như một phần của Thượng Hội đồng Giám mục về tính đồng nghị của Đức Phanxicô.
Được đặc trưng bởi các giai đoạn khác nhau, bắt đầu bằng các cuộc tham vấn cấp địa phương, cấp giáo phận với giáo dân trong các giáo xứ, và chuyển sang giai đoạn châu lục, trong đó các bản tóm tắt của các cuộc tham vấn đó đang được thảo luận ở cấp độ rộng hơn, quá trình này đã bắt đầu vào năm 2021 và sẽ kết thúc với hai cuộc họp của các giám mục ở Rôma, một cuộc diễn ra vào tháng 10 năm nay và cuộc cuối cùng được ấn định vào tháng 10 năm 2024.
Mục tiêu chính đã nêu ra của Thượng hội đồng về tính đồng nghị là làm cho Giáo Hội thành một nơi cởi mở, chào đón và bao hàm hơn, nơi mọi người đều có tiếng nói được lắng nghe và không ai cảm thấy bị bỏ rơi, và là nơi các quyết định không được đưa ra từ trên cao bằng sắc lệnh, mà đúng hơn là được thực hiện với sự tham khảo ý kiến của người dân.
Thực vậy, tính đồng nghị bao gồm một số ưu tiên chính của Đức Giáo Hoàng, từ việc xóa bỏ chủ nghĩa giáo sĩ trị đến việc trao quyền cho giáo dân và giới trẻ, đồng thời bảo đảm rằng phụ nữ có vai trò lớn hơn trong Giáo Hội, đặc biệt là khi nói đến vai trò lãnh đạo và ra quyết định.
Tính đồng nghị đối với Đức Phanxicô là bản lề trên đó Giáo hội nên hoạt động, và là quỹ đạo tự nhiên để thực hiện viễn kiến của Công đồng Vatican II, bảo đảm rằng giáo hội sẽ cởi mở, bao gồm và nhất là, lấy tín hiệu từ người dân.
Kinh tế
Một điệp khúc rõ ràng và nhất quán trong suốt 10 năm tại vị của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là sự chỉ trích công khai của ngài đối với chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, và sự ủng hộ của ngài đối với một hệ thống hoàn cầu công bằng hơn, tập trung ít hơn vào lợi nhuận và tập trung nhiều hơn vào sự phân phối công bằng các nguồn lực để phục vụ lợi ích chung, và có lợi cho người nghèo.
Đức Phanxicô tin rằng nhiều cải cách xã hội mà ngài đang kêu gọi bắt đầu ở bình diện kinh tế, và ngài đã kêu gọi những thay đổi lớn đối với hệ thống hoàn cầu trong gần như tất cả các bài phát biểu và tài liệu quan trọng trong suốt triều đại giáo hoàng này, từ việc thúc giục các mô hình phát triển bền vững hơn trong Laudato Si, đến các lời kêu gọi của ngài cho một nền kinh tế châu Âu được đổi mới dựa trên sự hội nhập và phẩm giá con người khi nhận Giải thưởng Charlemagne danh giá năm 2016.
Trong bài phát biểu dịp đó, Đức Giáo Hoàng đã đặt ra cụm từ nổi tiếng của mình, “châu Âu bà già,” nói rằng lục địa này đã quên đi những lý tưởng sáng lập của mình và đã trở nên mệt mỏi và đang rất cần sức sống mới, đồng thời kêu gọi các nhà lãnh đạo chuyển “từ một nền kinh tế lỏng sang một nền kinh tế xã hội”, hướng ít hơn vào doanh thu và đầu tư nhiều hơn vào con người, và chống tham nhũng.
Thông điệp Fratelli Tutti năm 2020 của ngài về tình bạn xã hội cũng mang nhiều giọng điệu tương tự, chứa đựng những lời chỉ trích rất dài đối với chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, đồng thời ủng hộ nhiệt tình các nỗ lực và chính sách đa phương dành ưu tiên cho những người dễ bị tổn thương nhất, bao gồm cả người di cư và người tị nạn.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã tìm cách tranh thủ những người trẻ tuổi cho chính nghĩa này thông qua biến cố “Nền kinh tế của Đức Phanxicô”, được tổ chức tại Assisi năm ngoái, từng thu hút các nhà kinh tế trẻ và những người tạo ra sự thay đổi từ khắp nơi trên thế giới để thảo luận về quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế hòa bình và công bằng hơn, dành ưu tiên cho người nghèo và môi trường.
Thoạt đầu được ấn định vào năm 2020 nhưng đã được dời lại do đại dịch vi-rút corona, với hầu hết các cuộc thảo luận và phiên làm việc trước đó đều được tổ chức trực tuyến. Tuy nhiên, khoảng 1000 người trẻ đã tham dự cuộc gặp trực tiếp và đã ký một hiệp ước với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong đó họ vạch ra viễn kiến về một nền kinh tế “hòa bình chứ không phải chiến tranh,” và được hướng dẫn bởi một bộ đạo đức rõ ràng dành ưu tiên cho phẩm giá con người và người nghèo.
Mặc dù tính đồng nghị đã đóng một vai trò quan trọng hơn trong triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô trong khoảng một năm qua, nhưng việc thúc đẩy hoán cải hệ thống kinh tế hoàn cầu của ngài vẫn là ưu tiên hàng đầu.
Hoán cải Mục vụ
Có lẽ chủ đề quan trọng nhất trong suốt 10 năm trị vì của Đức Phanxicô cho đến nay, là việc ngài thúc đẩy việc hoán cải mục vụ.
Từ những bài phát biểu dài hàng năm của mình trước Giáo triều Rôma, đến các tài liệu quan trọng của Đức Giáo Hoàng, các buổi tiếp kiến và phát biểu trước công chúng, ngài đã liên tục kêu gọi các tín hữu hoán cải bản thân, đồng thời thúc giục Giáo Hội và các mục tử của Giáo Hội cũng làm như vậy.
Kể từ khi bắt đầu triều đại giáo hoàng của mình, Đức Phanxicô đã thúc đẩy sự hoán cải này bằng cách chỉ trích Giáo Hội cứ mãi “đóng cửa” vào chính mình và bày tỏ mong muốn của ngài về “một Giáo hội hướng ra ngoài,” và tiếp xúc với người ta và nhu cầu của họ, thay vì bị ám ảnh bởi những cuộc tranh luận nội bộ tầm thường.
Toàn bộ chiến lược mục vụ của ngài nhằm mục đích giúp Giáo Hội trở thành “bệnh viện dã chiến dành cho người bệnh” mà ngài thường vận động, thay vì một câu lạc bộ dành riêng cho giới được tri nhận là thượng lưu, vốn là những người tuân theo mọi quy tắc và chấp nhận mọi học thuyết.
Mong muốn hoán cải mục vụ này có thể được nhìn thấy trong các bài phát biểu hàng năm khá dài và thẳng thắn của ngài trước các thành viên của Giáo triều Rôma, mà trong thập niên qua, ngài đã sử dụng như cơ hội để tiến hành một cuộc kiểm tra tập thể về một số “căn bệnh” tâm linh hữu thức, có tính chẩn đoán mà theo ngài, Giáo Hội đang mắc phải, và đưa ra các biện pháp khắc phục của riêng mình, luôn nhấn mạnh đến nhu cầu hoán cải.
Đức Phanxicô muốn cơ quan quản trị trung tâm của Giáo Hội và câu lạc bộ độc quyền nhất của nó, là Hồng Y đoàn, mang tính quốc tế và đa dạng hơn, đồng thời tập trung hơn vào việc truyền giảng Tin Mừng.
Mong muốn này được chứng minh không những bởi những người nhận mũ đỏ của ngài trong nhiều năm qua, mà còn cả bởi những bài viết của ngài trong các tài liệu quan trọng như tông huấn đầu tiên của ngài vào năm 2013, Evangelii Gaudium, hay “Niềm Vui Tin Mừng,” trong đó ngài kêu gọi các tín hữu trở thành “các môn đệ truyền giáo” yêu mến Tin Mừng, và tài liệu của ngài năm ngoái nhằm cải cách Giáo triều Rôma, Praedicate evangelium, hay “Hãy rao giảng Tin Mừng,” trong đó ngài đưa ra những thay đổi sâu rộng đối với giáo triều, tạo ra một bộ phận đặc biệt dành riêng cho việc truyền giáo và cho phép giáo dân nắm giữ những vai trò nổi bật hơn trong vai trò lãnh đạo.
Ngài đã nhất quán kêu gọi Giáo Hội trở nên thương xót hơn và dành ít thời gian hơn cho các cuộc tranh luận thần học và dành nhiều thời gian hơn để tiếp cận những người bị thương và đau khổ.
Đó là kết quả của Năm Thánh Lòng Thương Xót của ngài, trong đó ngài cho phép tất cả các linh mục được tha tội phá thai và mở rộng khả năng tiếp cận với các ân xá, và đó là yếu tố thúc đẩy đằng sau quyết định của ngài trong chú thích khét tiếng 351 của tài liệu Amoris Laetitia năm 2016 của ngài, được công bố sau Thượng Hội đồng Giám mục năm 2014 và 2015 về gia đình, trong đó ngài cho phép thận trọng mở cửa cho những người Công Giáo ly dị và tái hôn được rước lễ.
Đó cũng là động lực đằng sau việc ngài hợp lý hóa thủ tục tuyên bố vô hiệu hóa hôn nhân, và cũng là một yếu tố quan trọng trong Thượng Hội đồng Giám mục về Tính đồng nghị hiện nay.
Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô coi nhiệm vụ của mình là duyệt xét toàn bộ Giáo Hội, tiếp tục mở cửa Giáo Hội với thế giới và biến lòng thương xót và truyền giáo trở thành động lực đằng sau mọi hành động của mình, trong căn bản là thực hiện viễn kiến của Công đồn
g Vatican II và xóa bỏ bất cứ điều gì ngài tin là gây trở ngại cho việc này.
Hoán cải mục vụ là chìa khóa cho tất cả, nó là điều cần thiết để thực hiện viễn kiến của ngài, và điều này có thể sẽ vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu của ngài trong phần còn lại của triều đại giáo hoàng.