Kinh Thánh suy niệm tranh Thiếu Nhi tuần 3 Mùa Chay năm A
Ngày đăng: 1:46 PM - 11/03/2023
Kinh thánh bằng hình: Chúa nhật 3 Mùa Chay năm A

Phúc Âm Ga 4, 5-15. 19b-26. 39a. 40-42
TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT"
“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người,
phải thờ phượng theo thần khí và sự thật".
Suy niệm:
Ở một vài nơi có câu ngạn ngữ: “Được phần xác, nhếch nhác phần hồn.” Hiện tượng đời sống vật chất đi lên đẩy lòng đạo đức đi xuống chứng thực cho câu nó đó. Ở những nơi mà cuộc sống đã đạt tới mức phồn vinh cực độ thì lạ thay người ta lại cảm thấy tâm hồn trống rỗng hơn cả. Ngược lại với khuynh hướng tôn thờ vật chất ấy, có nhiều người chủ trương “đạo tại tâm”: tôn thờ Thiên Chúa chỉ trong tinh thần. Và do đó mọi hình thức thờ phượng như kinh nguyện, dự lễ, lãnh nhận các bí tích đều không cần thiết. Đức Giê-su dạy ta phải tôn thờ Thiên Chúa “trong thần khí và sự thật”. Nói một cách nơm na là chẳng những ta phải có lòng tin Chúa (trong thần khí) mà còn phải biểu hiện bằng những hành động thờ phượng thấy được ở bên ngồi (trong sự thật).
Mời Bạn:
Việc tơn thờ Chúa trong thần khí và sự thật giống như thế cân bằng của người đứng vững vàng trên hai chân của mình. Thiếu tấm lòng tin yêu hay thiếu việc thực hành sống đạo đều khiến cho việc thờ phượng Thiên Chúa trở thành khập khiễng. Đời sống bạn đang cân bằng hay khập khiễng?
Chia sẻ:
Hiện nay đang phổ biến tính thực dụng trong việc sống đạo: thích làm những “việc thiết thực” và coi việc thinh lặng cầu nguyện là phí giờ vô bổ. Theo bạn, cần chấn chỉnh thế nào để tái lập thế cân bằng?
Sống Lời Chúa:
Trong Mùa Chay này, bạn sắp xếp thời giờ, công việc để có thể tham dự Thánh lễ ngày thường.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con được tạo nên cho Chúa, nên tâm hồn con còn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa. (Thánh Âu-tinh)
Nguồn: 5 phút Lời Chúa tháng 03.2017
Thánh Kinh bằng tiếng Việt
Thánh Kinh bằng tiếng Anh
Ga 4,5-42
“Quả thật, chính chúng tôi đã nghe
và biết rằng người thật là Ðấng cứu độ trần gian”.
(Ga 4,42)
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng con vừa được nghe thánh sử Gioan thuật lại cho chúng ta một câu chuyện thật tuyệt vời.
Đọc xong câu chuyện này cha thấy nó rất phù hợp với Mùa Chay.
Cha đố chúng con biết tại sao cha dám nói thế ?
Mùa Chay là mùa kêu gọi người ta đổi mới cuộc đời và trở về với Chúa.
Cha thấy câu chuyện hôm nay là một cuộc đổi đời và trở về với Chúa rất đẹp, đẹp ngoài sự tưởng tượng của Cha. Câu chuyện này gồm ba bước:
1. Bước đầu tiên biết nhận tội:
Lúc đầu chúng con thấy người đàn bà này là một người hầu như chưa biết Chúa là ai. Thái độ của bà lại rất đanh đá. Bà không muốn tiếp chuyện với Chúa. Chỉ khi Chúa cho bà biết Chúa biết rất rõ về cuộc sống của bà, bà mới chịu nói chuyện.
“Xin cho tôi thứ nước đó để tôi khỏi còn phải ra đây kín nước nữa”
Chúa Giêsu đồng ý với một điều kiện:
“Về gọi chồng chị ra đây”
Khi nói thế Chúa biết bà ta sẽ trả lời thế nào rồi: “Tôi không có chồng”
Đúng là bà không có chồng. Chúa Giêsu biết điều đó và Chúa nói thật với bà “Chị đã có 5 đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị”.
Chúng con thấy bà ta phản ứng thế nào ? Bà ta im lặng, hoàn toàn im lặng như vậy là bà ta đã nhận lời Chúa nói là đúng.
Đây là việc đầu tiên của con đường trở về. Phải biết là mình có tội. Không biết nhận ra tội lỗi của mình thì không thể có sự trở về.
Mahatma Gandhi, vị lãnh đạo lừng danh của Ấn Độ, đã kể lại mẩu chuyện của đời ông:
Tôi phạm tội ăn cắp khi lên 15 tuổi Vì mắc nợ, tôi đã lấy trộm chiếc vòng bằng vàng của ba tôi để trả nợ. Nhưng tôi không thể nào chịu được sự ray rứt trong tâm hồn. Dù thế, vì quá mắc cỡ, tôi không thể nào mở miệng nói sự thật với ba tôi
Tôi viết lời thú tội vào một tờ giấy. Toàn thân tôi run rẩy khi tôi trao miếng giấy này cho ba tôi ông đã đọc, nhắm mắt lại một lúc và sau đó xé miếng giấy đi ông khẽ nói và choàng tay ôm tôi “Tốt lắm”.
Từ ngày đó, tôi lại càng yêu ba tôi hơn nữa”.
2. Bước thứ hai: Tin vào Thiên Chúa.
Tới đây thì câu chuyện đã chuyển sang một hướng khác. Khi bà ta thấy Chúa biết rõ về bà như thế thì lập tức bà thay đổi thái độ đối với Chúa: “Quả thật ngài là một ngôn sứ”.
Và kết cuộc thì thật kỳ diệu: Sau khi Chúa chỉ cho bà cách thức để bà có thể tìm gặp được một Thiên Chúa đích thực thì hình ảnh về một đấng Messia mà muôn dân đang mong đợi đã thoáng hiện ra trong tâm trí của bà: “Tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là Ki-tô sẽ đến và khi đến Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”(Ga 4,25)
Chúa Giêsu đã được bà gọi là Đấng Messia. Điều này có nghĩa là gì ? Thưa là bà đã tin vào Chúa Giêsu. Tin vào Chúa đó là bước thứ hai. Bước này cũng rất cần thiết vì có tin thì mới có bước thứ ba, bước cuối cùng.
Có một câu chuyện thật hay, kể về Mc. Leod Campbell, một nhà giảng thuyết người Scotland siêu phàm.
Ngày kia, một người bạn của ông tìm đến với ông, trong tâm trạng bối rối về mặt thiêng liêng:
- Xin anh nói cho tôi nghe làm thế nào mà anh biết rằng anh luôn luôn giữ được Thiên Chúa ?
Nhà giảng thuyết im lặng một lúc lâu, rồi sau đó, ông nói:
- Làm sao mà tôi biết rằng mình luôn luôn giữ được Thiên Chúa! Không phải lúc nào tôi cũng biết được điều đó. Nhưng tôi nhận biết rằng Người luôn luôn gìn giữ tôi!
3. Bước cuối cùng: Làm chứng cho Chúa.
Tới đây thì mọi sự đã thay đổi. Người đàn bà này bỏ vò nước xuống, chạy về thành loan báo cho mọi người rằng: “Ra mà xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng Ông đó là Đức Ki-tô!(Ga 4,29)
Một kết quả thật đẹp chúng con. Những người trong thành theo bà ra chỗ bà đã gặp Chúa. Họ đã thấy Chúa và sau khi được gặp Chúa họ đã tin Chúa: “Giờ đây không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là đấng Cứu Thế (Ga 4,42).
Thật quá đẹp chúng con.
Từ một con người tội lỗi, sau khi được giải thoát đã trở thành một người loan báo về Chúa cho những người khác. Từ một người không quen biết Chúa giờ đây đã trở thành người làm chứng để cho nhiều người cũng được biết Chúa: “Giờ đây không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là đấng Cứu Thế. (Ga 4,42)
Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho chúng ta cũng biết làm chứng cho tình thương của Chúa khi được biết Chúa, nhất là sau khi được Chúa thứ tha.
Một vua kia có vị thủ tướng rất tài giỏi vì học rộng biết nhiều. Ngày kia vị thủ tướng này trở lại đạo và luôn sống đức tin công giáo của mình trước mặt mọi người. Ngoài ra ông còn hay nói ông tin Đấng cứu thế đã đến thế gian để cứu chuộc loài người. Nhà vua nghe thế nhưng không hiểu. Một hôm kia nhà vua nói ông thủ tướng của mình: “Trẫm là vua, nếu trẫm thi hành điều gì thì chỉ cần truyền lệnh cho thần dân là đủ. Lẽ nào Đức Kitô là vua trên các vua mà lại tự hạ mình xuống thế gian này ? Điều đó rất vô lý!”
Vua muốn cho vị thủ tướng này về vườn, vì thấy ông tin theo Đức Kitô, song vua lại có lòng yêu mến ông nên hứa nếu ông giải nghĩa cho vua hiểu được việc này thì sẽ tha lỗi cho, không cách chức nữa. Vị thủ tướng xin vua cho mình suy nghĩ trong 24 giờ rồi sẽ giải đáp. Ông liền sai một người thợ mộc tài giỏi làm cho ông một tượng gỗ giống y hệt hình hoàng thái tử hai tuổi rồi cũng mặc quần áo giống hoàng thái tử. Ngày hôm sau lúc vua ngự thuyền rồng đi chơi với thủ tướng. Thủ tướng đã bố trí cho người thợ mộc ôm tượng hoàng thái tử đứng sắn ở sông bên kia, hễ xa xa thấy ông ra hiệu thì ném tượng hoàng thái tử xuống sông. Nhà vua đang ngồi trên thuyền chợt thấy tượng gỗ ấy rơi xuống sông, tưởng là con nên không kịp bảo ai, liến nhảy ngay xuống nước, bơi ra để cứu con.
Mọi sự xong xuôi, vị thủ tướng mới hỏi lại vua tại sao không sai một đầy tớ mà phải tự mình nhảy xuống nước làm gì, đến nỗi gần phải chết đuối và ướt hết long bào như thế. Vua trả lời: “Đó là do lòng thương”. Vị thủ tướng liền tâu với nhà vua: “Cũng giống như vậy, Đức Chúa Trời là Đấng Thượng Đế dựng nên thần cũng như muôn người muôn vật, cũng không đành lòng sai ai đem sứ mạng cứu rỗi xuống cho loài người; nhưng vì lòng yêu thương vô hạn, nên Ngài từ bỏ ngôi vinh hiển trên trời giáng xuống trần gian mà cứu chúng ta. Đó cũng là do nơi lòng thương chúng ta vậy!
Video Chúa nhật III Mùa Chay - Năm A
https://www.youtube.com/watch?v=l6uhTG6zbJU
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY A
Dẫn vào Thánh lễ
Đàn bà tội lỗi Sa-ma
Được Ngài xin nước cùng là hỏi han
Ngài không khinh rẻ tội nhân
Sẵn sàng tha thứ, ân cần lưu tâm.
Các bạn thiếu nhi thân mến, hôm nay, Chúa nhật thứ ba Mùa Chay: Thiên Chúa tìm kiếm con người (Ga 4,5-42).
Chúa Giêsu đã đến bờ giếng Giacóp miền Sa-ma-ri-a để nghỉ chân và xin nước uống. Tại đây, trong vai người xin nước, Chúa Giêsu đã cảm hóa người phụ nữ xứ này, để cuối cùng chị nhận ra Ngài là Đức Kitô, Đấng không phải đến đây để xin chị nước uống, mà cho chị Nước Hằng Sống (Ga 4,13-14).
Cùng với mọi người hiện diện nơi đây, mời các bạn thiếu nhi hãy sốt sắng hiệp dâng Thánh lễ. Xin cho chúng ta được gặp gỡ Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, để cùng đem Chúa về nhà với gia đình và đến trường cùng các bạn. Mời cộng đoàn đứng.
Bài đọc 1 (Xh 17,3-7)
Trên hành trình tiến về Đất Hứa, dân Is-ra-el đã kêu trách Chúa vì họ không có nước uống. Thiên Chúa đã không bỏ mặc dân, mà còn đáp ứng những gì họ cần.
Bài đọc 2 (Rm 5,1-2.5-8)
Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô nhắn nhủ: Ngay khi chúng ta còn là những tội nhân, thì Đức Kitô đã chết thay cho tất cả chúng ta.
Lời nguyện chung
Chủ tế: Chúng con thiếu nhi thân mến, bên bờ giếng Giacóp hôm nay, Chúa Giêsu đã tỏ cho người phụ nữ Sa-ma-ri-a tội lỗi biết: chính Ngài là Nước Hằng Sống. Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
- Toàn thể Giáo hội đã bước vào Mùa Chay. Xin cho mọi người trong đại gia đình Giáo hội/ biết gia tăng cầu nguyện và chia sẻ vật chất cho những người nghèo. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
- Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho con người. Xin cho những người chưa có niềm tin Kitô giáo, cũng như những tín đồ của các tôn giáo khác, nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
- Giáo hội luôn cần những chứng nhân đức tin. Xin cho các công nhân viên chức Công giáo/ trở nên những tấm gương về đời sống đức tin, bác ái và cầu nguyện. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
- Mùa Chay là thời gian để các tín hữu gia tăng việc cầu nguyện. Xin cho gia đình giáo xứ chúng ta/ biết tìm Chúa Giêsu nơi bàn tiệc Thánh Thể và trung thành với bổn phận cầu nguyện hằng ngày. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa không ngừng tìm kiếm, bảo vệ và chăm sóc chúng con. Xin soi lòng mở trí, để chúng con nhận ra tiếng Chúa gọi và mau mắn đáp lời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
https://gpcantho.com/dan-le-thieu-nhi-cn-3-mc-nam-a/
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY NĂM A
Ga 4, 5 – 42
TIN MỪNG
5 Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se.6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống! "8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao? " Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri.10 Đức Giê-su trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống."11 Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy."13 Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát.14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."
15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước."16 Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây."17 Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng." Đức Giê-su bảo: "Chị nói: "Tôi không có chồng" là phải,18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng."19 Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. ..20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa."21 Đức Giê-su phán: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái.23 Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật."25 Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự."26 Đức Giê-su nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."
27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy? " Hoặc "Thầy nói gì với chị ấy? "28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta:29 "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao? "30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa."32 Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết."33 Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng? "34 Đức Giê-su nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.37 Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng!38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ."
39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa.42 Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian."
5 So he came to a town of Samaria called Sychar, 4 near the plot of land that Jacob had given to his son Joseph.
6 Jacob's well was there. Jesus, tired from his journey, sat down there at the well. It was about noon
7 A woman of Samaria came to draw water. Jesus said to her, "Give me a drink."
8 His disciples had gone into the town to buy food.
9 5 The Samaritan woman said to him, "How can you, a Jew, ask me, a Samaritan woman, for a drink?" (For Jews use nothing in common with Samaritans.)10 6 Jesus answered and said to her, "If you knew the gift of God and who is saying to you, 'Give me a drink,' you would have asked him and he would have given you living water."
11 (The woman) said to him, "Sir, 7 you do not even have a bucket and the cistern is deep; where then can you get this living water?12 Are you greater than our father Jacob, who gave us this cistern and drank from it himself with his children and his flocks?"
13 Jesus answered and said to her, "Everyone who drinks this water will be thirsty again;14 but whoever drinks the water I shall give will never thirst; the water I shall give will become in him a spring of water welling up to eternal life."
15 The woman said to him, "Sir, give me this water, so that I may not be thirsty or have to keep coming here to draw water."
16 Jesus said to her, "Go call your husband and come back."
17 The woman answered and said to him, "I do not have a husband." Jesus answered her, "You are right in saying, 'I do not have a husband.'18 For you have had five husbands, and the one you have now is not your husband. What you have said is true."
19 The woman said to him, "Sir, I can see that you are a prophet.
20 Our ancestors worshiped on this mountain; 8 but you people say that the place to worship is in Jerusalem."
21 Jesus said to her, "Believe me, woman, the hour is coming when you will worship the Father neither on this mountain nor in Jerusalem.
22 You people worship what you do not understand; we worship what we understand, because salvation is from the Jews.
23 But the hour is coming, and is now here, when true worshipers will worship the Father in Spirit and truth; 9 and indeed the Father seeks such people to worship him.
24 God is Spirit, and those who worship him must worship in Spirit and truth."
25 10 The woman said to him, "I know that the Messiah is coming, the one called the Anointed; when he comes, he will tell us everything."
26 Jesus said to her, "I am he, 11 the one who is speaking with you."
27 At that moment his disciples returned, and were amazed that he was talking with a woman, 12 but still no one said, "What are you looking for?" or "Why are you talking with her?"
28 The woman left her water jar and went into the town and said to the people,29 "Come see a man who told me everything I have done. Could he possibly be the Messiah?"
30 They went out of the town and came to him.
31 Meanwhile, the disciples urged him, "Rabbi, eat."
32 But he said to them, "I have food to eat of which you do not know."
33 So the disciples said to one another, "Could someone have brought him something to eat?"
34 Jesus said to them, "My food is to do the will of the one who sent me and to finish his work.
35 Do you not say, 'In four months 13 the harvest will be here'? I tell you, look up and see the fields ripe for the harvest.
36 The reaper is already 14 receiving his payment and gathering crops for eternal life, so that the sower and reaper can rejoice together.
37 For here the saying is verified that 'One sows and another reaps.'38 I sent you to reap what you have not worked for; others have done the work, and you are sharing the fruits of their work."
39 Many of the Samaritans of that town began to believe in him because of the word of the woman 15 who testified, "He told me everything I have done."
40 When the Samaritans came to him, they invited him to stay with them; and he stayed there two days.
41 Many more began to believe in him because of his word,42 and they said to the woman, "We no longer believe because of your word; for we have heard for ourselves, and we know that this is truly the savior of the world."
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 4,10
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Bên bờ giếng của ai, Đức Giêsu đã gặp người phụ nữ thành Samari? (Ga 4 5)
a. Ông Giuse.
b. Ông Giacóp.
c. Ông Giuđa.
d. Ông Ápraham.
02. Sau khi dân thành Samari gặp gỡ và lắng nghe Đức Giêsu, họ nói: “Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là … …”(Ga 4,42)
a. Đấng cứu độ trần gian.
b. Con Thiên Chúa.
d. Đấng cứu thế phải đến.
c. Đấng Mesia mà các ngôn sứ đã loan báo.
03. “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi ban, sẽ không bao giờ khát nữa”.Đây là lời của ai? (Ga 4, 12-14)
a. Ông Gioan Tẩy giả.
b. Gioan Tông đồ.
c. Đức Giêsu.
d. Ông Giacóp.
04. "Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong … … ... ." (Ga 4, 24)
a. Tin tưởng và yêu mến.
b. Thần khí và sự thật.
c. Tin tưởng và tùng phục.
d. Thần khí và mến yêu.
05. "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và … … ... ." (Ga 4,34)
a. Hoàn tất công trình của Người.
b. Làm theo những lời của Người.
c. Thực hiện những điều Người dạy bảo.
d. Những điều đã được tiên báo trong Thánh Kinh.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Người dân thành Samari đã tin nhận Đức Giêsu là ai? (Ga 4,42)
02. Đây là thành, nơi người Do thái tôn thờ Thiên Chúa. (Ga 4,20-21)
03. Ơn cứu độ phát xuất từ dân tộc nào? (Ga 4,22)
04. Đức Giêsu xin người phụ nữ thành Samari điều gì? (Ga 4,7)
05. Tên làng quê, nơi Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng.(Ga 4,5)
06. Sau khi gặp Đức Giêsu, dân thành Samri đã xin Người lưu lại với họ bao nhiêu ngày? (Ga 4,4)
07. Đức Giêsu nói: “Nếu chị nhận ra … … … Thiên Chúa ban, và ai là Người nói với chị “cho tôi chút nước uống” thì hẳn chị đã xin và Người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”. (Ga 4,10)
08. Đây là thứ dùng để múc nước?. (Ga 4,11)
09. Dân thành nào đã lắng nghe và tin nhận Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian? (Ga 4,42)
10. Bên bờ giếng của ai, Đức Giêsu đã gặp người phụ nữ thành Samari? (Ga 4,5)
11. Người phụ nữ Samari tin nhận Đức Giêsu là ai? (Ga 4,25)
12. Ai đã gặp và xin nước uống của người phụ nữ bên bờ giếng của ông Giacóp? (Ga 4,7)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy”.
Tin mừng thánh Gioan 4,34
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY NĂM A
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
ĐỨC GIÊSU BÊN BỜ GIẾNG GIACÓP
* Câu Tin mừng thánh Gioan 4,10
"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban,
và ai là người nói với chị:
"Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin,
và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống."
II. TRẮC NGHIỆM
01. b. Ông Giacóp (Ga 4,5)
02. a. Đấng cứu độ trần gian (Ga 4,42)
03. c. Đức Giêsu (Ga 4,12-14)
04. b. Thần khí và sự thật (Ga 4,24)
05. a. Hoàn tất công trình của người (Ga 4,34)
III. Ô CHỮ
01. Đấng cứu độ (Ga 4,42)
02. Giêrusalem (Ga 4,20-21)
03. Do thái (Ga 4,22)
04. Nước uống (Ga 4,7)
05. Sykha (Ga 4,5)
06. Hai ngày (Ga 4,4)
07. Ân huệ (Ga 4,10)
08. Gầu (Ga 4,11)
09. Samari (Ga 4,42)
10. Giacóp (Ga 4,5)
11. Đấng Mêsia (Ga 4,25)
12. Đức Giêsu (Ga 4,7)
https://giaophannhatrang.org/vi/news/Giai-Dap-Giao-Ly/vui-hoc-thanh-kinh-chua-nhat-iii-mua-chay-a-25243.html
Hàng dọc : Nước Hằng Sống
NGUYỄN THÁI HÙNG
Trò Chơi Ô Chữ – Chúa Nhật III Mùa Chay 2023 – Năm A
https://www.tonggiaophanhanoi.org/tro-choi-o-chu-chua-nhat-iii-mua-chay-2023-nam-a/
PHÚC ÂM: Ga 4,5-42
“Mạch nước vọt đến sự sống đời đời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: “Xin bà cho tôi uống nước” (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: “Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?” (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria).
Chúa Giêsu đáp: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: “Xin cho tôi uống nước”, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống”.
Người đàn bà nói: “Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?”
Chúa Giêsu trả lời: “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”. Người đàn bà thưa: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Chúa Giêsu bảo: “Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây”. Người đàn bà đáp: “Tôi không có chồng”. Chúa Giêsu nói tiếp: “Bà nói “tôi không có chồng” là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó”.
Người đàn bà nói: “Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem”.
Chúa Giêsu đáp: “Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý”.
Người đàn bà thưa: “Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Chúa Giêsu bảo: “Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây”.
Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: “Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?” Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?” Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: “Xin mời Thầy ăn”. Nhưng Ngài đáp: “Thầy có của ăn mà các con không biết”. Môn đệ hỏi nhau: “Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?” Chúa Giêsu nói: “Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ”.
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: “Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm”. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế”.
Ðó là lời Chúa.
Đáp án: Chúa Nhật II Mùa Chay 2023 – Năm A
1. Giacôbê
2. Gioan
3. Lên núi
4. Mặt trời
5. Trắng như tuyết
6. Êlia
7. Phêrô
8. Dựng lều
9. Chạm vào
10. Vâng nghe
11. Chúa Cha
12. Chúa Giêsu
Từ khóa: Con Thiên Chúa
Tranh tô màu – Chúa Nhật III Mùa Chay – Năm A
https://www.tonggiaophanhanoi.org/tranh-to-mau-chua-nhat-iii-mua-chay-nam-a/
PHÚC ÂM: Ga 4,5-42
“Mạch nước vọt đến sự sống đời đời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: “Xin bà cho tôi uống nước” (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: “Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?” (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria).
Chúa Giêsu đáp: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: “Xin cho tôi uống nước”, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống”.
Người đàn bà nói: “Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?”
Chúa Giêsu trả lời: “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”. Người đàn bà thưa: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Chúa Giêsu bảo: “Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây”. Người đàn bà đáp: “Tôi không có chồng”. Chúa Giêsu nói tiếp: “Bà nói “tôi không có chồng” là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó”.
Người đàn bà nói: “Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem”.
Chúa Giêsu đáp: “Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý”.
Người đàn bà thưa: “Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Chúa Giêsu bảo: “Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây”.
Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: “Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?” Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?” Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: “Xin mời Thầy ăn”. Nhưng Ngài đáp: “Thầy có của ăn mà các con không biết”. Môn đệ hỏi nhau: “Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?” Chúa Giêsu nói: “Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ”.
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: “Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm”. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế”.
Ðó là lời Chúa.