Lời Chúa trên 14 chặng Đàng Thánh Giá & Chú giải Lời Chúa Chúa nhật 2 Mùa Chay - Năm A
Ngày đăng: 12:58 PM - 25/02/2023
ĐÀNG THÁNH GIÁ
CHỦ ĐỀ: LỜI CHÚA TRÊN 14 CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ

Dẫn nhập
Cộng đoàn dân Chúa rất thân mến,
Chặng đàng thánh giá năm nay trở nên đặc biệt khi chúng ta cùng bước đi với Lời của Chúa, với chính Thầy Giêsu. Vì yêu thương, Chúa Giêsu sẵn sàng bước vào con đường thương khó và chịu chết để cứu độ từng người. Hãy để cho Lời Chúa hướng dẫn chúng ta bước đi trên 14 chặng đàng thánh giá này. Khi ấy, không chỉ chúng ta hiện diện với Chúa, nhưng còn để sứ điệp Tin Mừng trở nên ngọn đèn soi cho mỗi người bước đi trên hành trình dương thế (x.Tv 118,105). Vì lý do này, trong sứ điệp Mùa Chay năm nay, Đức Giáo Hoàng nhắn với mỗi người: chúng ta cần lắng nghe Chúa Giêsu[1].
Hơn nữa, lời mời gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho năm 2023 này là củng cố sự hiệp thông[2], vốn chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng Lời Chúa. Trên con đường này, chính Thiên Chúa sẽ dẫn mỗi người bước đi cùng nhau với con tim rộng mở yêu thương: yêu Thiên Chúa, thương con người.
Dĩ nhiên chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần dẫn bước vào những chặng đàng thánh giá sắp tới với nhiều tâm tình thiêng liêng.
Chặng 1: Phi-la-tô Kết Án Chúa Giêsu
– Lời Chúa theo thánh Mác-cô:
Ông Phi-la-tô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái?” Họ la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô lại hỏi: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 15,12-13).[3]
– Suy ngắm:
Kể từ giây phút này, Chúa Giêsu chính thức bước lên ngọn đồi Canvê. Chúng ta không nghe Đức Giêsu nói lời nào trong khoảnh khắc đón nhận bản án này. Nếu có mặt trong thời khắc ấy, chúng ta cũng có thể đồng cảm với nỗi đau của Ngài.
Chúa Giêsu không nói gì, nhưng chỉ một lòng vâng theo thánh ý Chúa Cha. Ý định ngàn đời của Ngài là gửi Con Một xuống thế làm người để yêu thương và cứu độ con người (Ep 1,5). Vậy là với bản án của Phi-la-tô hôm nay, Ngôi Lời Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá. Có lẽ lúc này Chúa Giêsu chỉ còn biết nhìn xung quanh với lời mời gọi thống thiết: “Phần anh chị em, hãy theo Thầy.” (Lc 22,31-32).
– Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con được Lời Ngài hướng dẫn để có thể hiệp hành trong yêu thương. Trong tiến trình này, đôi khi ngôn ngữ của cử chỉ và hành động lại trở nên quan trọng hơn lời nói. Ước gì Lời Chúa thấm vào cuộc sống của mỗi người chúng con. Với Lời Chúa, chúng con hiểu rằng: “Con đường hiệp hành này chính là con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba”[4]. Xin Ngôi Lời của Chúa nhìn đến chúng con ở đây và lúc này. Amen.
Chặng 2: Chúa Giêsu Vác Thập Giá
– Lời Chúa theo thánh Gioan:
“Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha.” (Ga 19,17).
– Suy ngắm:
Đó là buổi chiều với nhiều hoang mang dành cho các môn đệ khi thấy Thầy mình phải vác thập giá nặng nề. Theo luật hình sự ngày ấy, thập giá là nỗi sỉ nhục, là án tử ghê rợn dành cho những phạm nhân. Chúa Giêsu vô tội (x. Hr 4,15), nhưng vì yêu thương con người, Ngài đã đón lấy khúc gỗ sần xùi ấy đặt lên bờ vai đang còn rướm máu, vì roi đòn trước đó.
Hình ảnh này gợi nhớ lại biết bao lần Đức Giêsu nói về thập giá. Đó là những đau khổ mà chính Chúa Giêsu muốn chia sẻ với phận người chúng ta. Ngôi Lời đến ở giữa chúng ta. Ngài không giải thích về khổ đau, nhưng đón lấy đau khổ. Trái tim Chúa Giêsu biết bao lần rung động và chạnh lòng với khổ đau của ta. Ngài đã làm nhiều phép lạ để giải thoát con người khỏi đau thương.
Chính lúc này, Chúa Giêsu như thể đang nói với tôi, với từng người trong chúng ta: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Theo Lời này của Chúa, chúng ta xin ơn sức mạnh để vác thập giá đời mình cho đến cuối con đường.
–Cầu Nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, muôn đời chúng con sẽ không hiểu hết về thập giá. Tiếc là đau khổ cứ theo chúng con hệt như cái chết mà chính Chúa Giêsu lúc này cũng đang đối diện. Xin Lời của Ngài vực dậy tinh thần để chúng con dám sống với khổ. Xin cho chúng con biết rằng mình phải vác thập giá chứ không được kéo lê, và phải đón nhận thập giá như kho tàng quý giá, chứ không phải như một gánh nặng. Chỉ nhờ thập giá mà chúng con mới có thể nên giống như Chúa Kitô[5]. Amen.
Chặng 3: Chúa Giêsu Ngã Xuống Đất Lần Thứ Nhất
– Lời Chúa theo thánh Mát-thêu:
“Khi nghe tiếng Chúa Cha, các môn đệ “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Bấy giờ Chúa Giêsu lại gần, chạm đến các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Chúa Giêsu mà thôi.” (Mt 17,6-8).
– Suy ngắm:
Những lời trên đây gợi nhớ lại bối cảnh Đức Giêsu hiển dung (x. Mc 9,2-10). Lần đó Chúa Giêsu biến hình, tỏ lộ vinh quang quyền năng sáng lạn của Ngài trên núi Ta-bor. Trước vinh quang đó, các môn đệ sợ đến nỗi không đứng vững.
Còn lúc này, Chúa Giêsu của chúng ta đang ngã xuống đất lần thứ nhất. Với sức nặng của thập giá, giữa dòng người chen lấn, Đức Giêsu đã ngã nhoài. Từ lần ngã này, Đức Giêsu muốn Lời Chúa thấm vào tận ngóc ngách cuộc đời của chúng ta. Đức Giêsu cũng cho thấy Lời Chúa không chỉ ở trên cao, nhưng còn xuống thấp, đến gần với cuộc đời của từng người.
– Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời hằng sống, đã bao lần chúng con cho rằng Lời Ngài quá xa vời. Suy nghĩ ấy khiến chúng con tự cách xa Thiên Chúa, giữ khoảng cách với Lời cứu độ. Lúc này đây, Ngài đã đi vào những khốn khổ của phận người. Ngài ở cùng chúng con, để Lời Chúa cũng vực dậy, nâng chúng con đứng lên đi tiếp. Xin giúp chúng con đừng bao giờ bỏ cuộc trước những thách đố và khổ đau. Amen.
Chặng 4: Chúa Giêsu Gặp Đức Mẹ
– Lời Chúa theo thánh Luca:
“Sau đó, Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ Ngài, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.” (Lc 2,35).
– Suy ngắm:
Mẹ Maria cố gắng chen qua đám đông để được gặp người Con mà Mẹ hằng yêu mến. Lần gặp này tuy ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để cả hai được tiếp thêm sức mạnh. Hẳn là lúc này, biết bao kỷ niệm tràn về với Mẹ Maria và Đức Giêsu. Từ biến cố truyền tin cho đến giây phút hiện tại, Mẹ Maria với Chúa Giêsu như hình với bóng. Biết bao Lời của Đức Giêsu đã thủ thỉ với Đức Mẹ. Mẹ muốn nhớ và suy đi nghĩ lại trong tâm tình cầu nguyện! Càng nhớ, Mẹ càng thương Đức Giêsu; càng nhớ, nước mắt Mẹ càng tuôn rơi vì thương con mình đang phải chịu cực hình. Tuy nhiên, Mẹ hằng tin tưởng vào Lời của con mình rằng: “Rồi đây nhân loại sẽ được cứu độ.”
– Chúng ta cùng cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria, trong tiến trình hiệp hành này, lắng nghe là bước đầu tiên, đòi hỏi khối óc và con tim chúng con rộng mở, bỏ đi những thành kiến. Trước hết, xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe và hằng ghi nhớ Lời Chúa; và sau là giúp chúng ta biết lắng nghe nhau.
Xin thôi thúc những vị chủ chăn cũng biết lắng nghe giáo dân, đặc biệt là những người nghèo khổ, yếu thế cô thân. Khi đó, Mẹ con chúng ta cũng được gặp Thiên Chúa, và gặp gỡ nhau trong tình yêu thương chia sẻ. Amen.
Chặng 5: Ông Simon Vác Đỡ Thập Giá
– Lời Chúa trong Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Galát:
“Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô.” (Gal 6,2).
– Suy ngắm:
Càng bước đi, Đức Giêsu càng yếu dần, nhưng Ngài không bỏ cuộc. Quân lính cảm thấy cần ai đó giúp Đức Giêsu, nên gọi một người đang đứng bên lề đường. Tên ông ấy cũng được Tin mừng nhắc đến, đó là Si-mon ở thành Ky-rê-nê. Ông “vô tình” được cộng tác với chương trình cứu độ của Đức Giêsu.
Lúc này, Đức Giêsu cảm ơn Si-mon đã giúp đỡ. Chính Si-mon từ từ vượt qua mặc cảm để tự nguyện vác thập giá cùng với Chúa Giêsu. Thập giá nhẹ hơn rất nhiều khi hai người cùng vác. Đây là Lời Thiên Chúa hằng nhắn nhủ cho mỗi người trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu: “Các con hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” (Lc 10,29-37). Nghĩa là bên cạnh chúng ta còn nhiều người đang cần trợ giúp.
– Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân lành, quảng đại giúp đỡ tha nhân thường là thách đố với mỗi người chúng con. Trên chặng thập giá này, ông Si-mon đã giúp chúng con can đảm hơn, dấn thân hơn để vươn đến những ai đang cần chúng con giúp. Ước sao chúng con nghe được những lời cầu xin của biết bao người. Khi đó: “Lời cầu xin của họ được lắng nghe, những khó khăn của họ nhận được sự trợ giúp, tấm lòng quảng đại sẵn sàng của họ được đề cao, phẩm giá của họ được Thiên Chúa nhìn nhận và được cộng đồng phục hồi.”[6] Amen.
Chặng 6: Bà Vêrônica Lau Mặt Chúa Giêsu
– Lời Chúa theo thánh Mát-thêu:
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40).
– Suy ngắm:
“Thưa thầy, xin cho con được lau mặt của thầy!” Đó là lời của một phụ nữ đang giúp Đức Giêsu trên con đường thương khó. Chẳng ai biết tên của bà, nhưng vì tấm khăn bà lau mặt Đức Giêsu mà người đời sau gọi tên bà là Vêrônica, nghĩa là “chân dung đích thực phản ảnh gương mặt Thầy Giêsu.”[7]
Nếu phải xem ai là mẫu gương giúp tha nhân tốt nhất, chúng ta phải nhớ đến bà Vêrônica. Lý do là “mỗi lần chúng ta thực thi bác ái với những người nghèo khổ, người cần sự giúp đỡ, là chúng ta đang làm cho Đức Kitô” (x. Lc 10,37). Nếu làm được điều này, chúng ta sẽ có Giáo hội của niềm vui, một Giáo hội của người nghèo và một Giáo hội rắc gieo men công lý, tình huynh đệ, với hy vọng chắc chắn về trời mới đất mới nơi khuôn mặt của Đức Giêsu[8].
– Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, chúng con phải làm gì để được sự sống đời đời? Câu hỏi quan trọng này giúp chúng con vừa chú tâm dành thời gian để sẵn lòng gặp gỡ người khác, vừa để mình bị chất vấn bởi những ưu tư của họ. Trong Tin mừng, Chúa không xa cách, không tỏ ra bực bội hay khó chịu khi bị làm phiền. Ngược lại, Ngài luôn muốn gặp gỡ con người, gặp gỡ các khuôn mặt, đón nhận những ánh mắt, chia sẻ chuyện đời của mỗi người chúng con. Trong Tin Mừng, chúng con thấy Ngài không vội vã bước đi. Ngài không nhìn đồng hồ để mau chóng kết thúc cuộc trò chuyện. Ngài luôn phục vụ người đối diện, lắng nghe những gì họ nói[9]. Chúng con muốn bắt chước Ngài khi gặp gỡ nhau. Amen.
Chặng 7: Chúa Giêsu Ngã Lần Thứ Hai
– Lời Chúa theo thánh Mát-thêu:
“Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11,29-30).
– Suy ngắm:
Càng bước đi, sức Thầy Giêsu càng yếu dần. Ngài đã ngã xuống đất lần thứ hai. Lần ngã này đau hơn lần trước, nhưng Ngài không bỏ cuộc. Một tay chống xuống đất, tay kia ôm nghì thập giá. Ngài đứng lên đi tiếp.
Chiêm ngắm Đức Giêsu lúc này, chúng ta thêm xác tín rằng: “Mục đích của hiệp hành là để gieo mầm ước mơ, rút ra các lời tiên tri và thị kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau đan kết các mối tương quan, đánh thức bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và mang lại một khả năng sáng tạo giúp khai mở trí tuệ, sưởi ấm trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay.”[10] Lời Chúa hay mẫu gương của Đức Giêsu lúc này thôi thúc tâm trí mỗi người dấn thân.
–Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, trên lộ trình hiệp hành, ngay cả khi Thiên Chúa ban cho chúng con ân sủng của một số trải nghiệm hiệp thông mạnh mẽ, ước mong chúng con đừng ảo tưởng là mình đã đến đích. Mỗi khi gặp khó khăn, xin Chúa lặp lại với chúng con lời này: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”. Khi đó, chúng con sẽ là “những nghệ nhân của tính hiệp hành” trong cuộc sống thường ngày tại các cộng đoàn của chúng con[11]. Amen.
Chặng 8: Chúa Giêsu An Ủi Con Cái Thành Giêrusalem
– Lời Chúa theo thánh Luca:
“Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc, thì khóc cho phận mình và cho con cháu.” (Lc 23,28).
– Suy ngắm:
Trên chặng đường này, Đức Giêsu gặp một số phụ nữ Giêrusalem. Họ là những phụ nữ ở Giêrusalem thường mang thuốc giảm đau và an thần đến cho những người bị hành quyết uống. Khi gặp họ, Đức Giêsu đã nói những lời an ủi trên đây.
Trong năm Giáo hội khuyến khích chúng ta đọc Thánh Kinh, ước gì Lời này của Chúa cũng tác động đến từng người. Chúng ta hãy khóc thương cho thân phận tội lỗi yếu đuối của mình. Những giọt nước mắt hối hận sẽ giúp chúng ta cùng nhau hàn gắn các vết thương. Đó có thể là những nỗi đau giữa mục tử với đoàn chiên, giữa các nhóm nhỏ với nhau, hoặc xảy ra trong các thành viên nơi gia đình.
Chiêm ngắm Đức Giêsu lúc này, chúng ta hãy cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn hoán cải và xức dầu bên trong mỗi người để có thể biểu lộ sự hối lỗi trước tội mình đã phạm, và can đảm quyết tâm chống lại những cám dỗ của kẻ thù[12] .
–Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, “dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” Xin thôi thúc chúng con đến với Lời Chúa. Có thể lúc đầu hơi khó, nhưng với ơn Chúa giúp, chúng con hy vọng mình dám mở cuốn Kinh Thánh ra để tập đọc, tập lắng nghe và tập cầu nguyện với Thiên Chúa. Xin tiếp tục an ủi và dạy bảo chúng con sống theo bức thư tình Kinh Thánh[13] mà chính Thiên Chúa viết cho chúng con. Amen.
Chặng 9: Chúa Giêsu Ngã Lần Thứ Ba
– Lời Chúa theo thánh Gioan:
Đức Giêsu hỏi ông Si-môn Phêrô: “Này anh Si-môn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” (Ga 21,15).
–Suy ngắm:
Chúng ta cảm ơn Thiên Chúa đã đến để chăm sóc mỗi người như mục tử tốt lành. Lúc này Mục tử Giêsu của chúng ta ngã xuống đất lần thứ ba. Những vết thương va vào đất đá càng khiến máu chảy ra thêm. Ngài đau... nhưng không một lời oán trách.
Có lẽ lần ngã này Đức Giêsu muốn ôm lấy các mục tử của Chúa đang có những lỗi lầm. Chính Chúa Giêsu muốn đi vào tận nỗi đau của các mục tử để đưa họ về với Chúa Cha. Khi chiêm ngắm Mục Tử Giêsu gương mẫu tốt lành, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn cho các mục tử rằng:
“Toàn thể Hội thánh được mời gọi giải gỡ gánh nặng của nền văn hóa thấm nhiễm chủ nghĩa giáo sĩ trị do lịch sử để lại, cùng với những thói tục thi hành quyền bính để mọi thứ lạm dụng khác như: quyền lực, kinh tế, lương tâm, tình dục, có cơ hội bám vào. Không thể có chuyện hoán cải hoạt động của Hội thánh mà lại không có sự tham gia tích cực của tất cả mọi thành phần Dân Chúa”[14].
–Cùng với Chúa Giêsu chúng ta cầu nguyện cho các mục tử, các linh mục của Chúa:
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót,
xin nhớ đến các linh mục,
bởi các ngài cũng chỉ là tạo vật yếu đuối thấp hèn.
Xin Chúa hằng khơi dậy nơi tâm hồn các ngài,
hồng ân đã lãnh nhận trong ngày chịu chức thánh.
Xin gìn giữ các ngài thật gần Chúa,
để kẻ thù không lấn át được,
và cũng để các ngài biết bảo vệ toàn vẹn,
sự trong sáng của ơn gọi cao cả trong chức linh mục.
Chúng con khẩn cầu cho các linh mục,
là những vị trung tín và nhiệt tâm,
cũng như những vị bất tín và nguội lạnh;
những vị đang làm việc nơi đây,
vì Danh Chúa và lợi ích các linh hồn.
Xin cho các ngài được tràn đầy sức mạnh Chúa Thánh Thần,
và xin chúc phúc dồi dào cho các ngài
bây giờ và mãi mãi[15]. Amen.
Chặng 10: Quân Dữ Lột Áo Chúa Giêsu
– Lời Chúa theo thánh Gioan:
“Lính tráng nói với nhau: “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.” (Ga 19,24).
– Suy ngắm:
Quần áo Ngài lúc này cũng bị lột bỏ. Những sỉ nhục mà Đức Giêsu đang chịu là vì tội lỗi của chúng ta. Vì yêu nên Ngài chấp nhận mọi khổ đau khinh rẻ. Lúc này Đức Giêsu thực sự là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa mà tiên tri I-sa-i-a bảy thế kỷ trước đã tiên báo. Người tôi tớ là Đức Giêsu đang nhìn chúng ta để nhắn nhủ bao điều với ngôn ngữ của tình yêu.
Nhất là trong những biến cố đau khổ, chúng ta cảm thấy dường như Thiên Chúa vắng bóng. Sự thật là Thiên Chúa luôn hiện diện. Ngài luôn ở với con người, nhưng nhiều khi Thiên Chúa cũng muốn im lặng để đồng cảm với chúng ta.
Ước gì chúng ta không quên Ngôi Lời vẫn đang nói với mỗi người trong Kinh Thánh, trong các biến cố của cuộc đời. Bất cứ khi nào chúng ta đọc Lời Chúa, là lúc Chúa nói thật lớn, với những thông điệp rất cụ thể. “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.” (Dt 4,12).
–Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời của Thiên Chúa, xin giúp chúng con dám suy gẫm Lời Chúa và để cho Chúa Thánh Thần làm Thầy dạy của chúng con. Khi đó, chúng con nhận ra: “tư tưởng của Chúa không phải tư tưởng của loài người”. Hơn nữa chúng con sẽ chiêm ngắm Thiên Chúa thật, và nhìn mọi biến cố bằng con mắt của Chúa. Lúc ấy chúng con sẽ được hưởng nếm một niềm vui dồi dào phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa[16]. Amen.
Chặng 11: Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh Vào Thập Giá
– Lời Chúa theo thánh Mác-cô:
“Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: “Vua người Do Thái”. Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái.” (Mc 15,25-26).
– Suy ngắm:
Thân tàn lực kiệt, Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá. Cũng từ đây, thập giá trở nên thánh giá như là biểu tượng của những ai tin vào Đức Giêsu. Lúc này, thánh giá trở nên biểu tượng của ơn cứu độ mà Đức Giêsu đã đánh đổi mạng sống để mang đến cho loài người chúng ta[17].
Như thế, chính Đức Giêsu đang đi cùng với từng người trong nỗi bi thương này. Ngài cũng là lớp người bị đóng đinh. Trong thân phận ấy, Đức Giêsu của chúng ta đang ở gần với những ai bị bóc lột về mặt kinh tế, bị áp bức về mặt chính trị, bị xa lánh ghét bỏ về mặt văn hóa và tôn giáo, bị kỳ thị về mặt giới tính, chủng tộc hoặc giai cấp xã hội, trong thời Đức Giêsu cũng như hiện nay và trong tương lai[18].
– Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, khi bàn tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá, Ngài đã đóng đinh cả tội lỗi chúng ta vào thập giá nữa[19]. Giây phút này, chúng con cùng nhìn lên thánh giá. Ngài đang nói những lời sau cùng:
* “Cha ơi, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34).
* “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng.” (Lc 23,43).
* “Thưa bà, đây là con bà – hỡi con, này là mẹ con” (Ga 19,26).
Xin cho chúng con cũng biết lắng nghe những lời này với tâm tình đồng cảm với Chúa thật nhiều. Amen
Chặng 12: Chúa Giêsu Chết Trên Thập Giá
– Lời Chúa theo thánh Gioan:
“Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.” (Ga 19,30).
– Suy ngắm:
Ánh nắng ngả về chiều. Đức Giêsu gục đầu trao Thần Khí. Ngài đã chết. Cái chết như biết bao phận người. Cái chết đã được báo trước trong Kinh Thánh, trong hành trình rao giảng của Ngài. “Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.”[20]
Hôm nay Đức Giêsu vẫn tiếp tục hiến mạng sống trong Bí tích Thánh Thể. Ngài luôn là nguồn suối hiệp thông, khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta được hiệp thông với Chúa và được liên kết với nhau (x. 1 Cr 1016-17). Mong sao chúng ta tham dự thánh lễ cách tích cực và sống động, nhờ đó ngày càng củng cố mối hiệp thông với Chúa và với nhau trong Chúa[21].
–Cầu nguyện[22]:
Lạy linh hồn Chúa Kitô, xin thánh hóa con.
Lạy xác thánh Chúa Kitô, xin cứu độ con.
Lạy Máu Thánh Chúa Kitô, xin làm cho con say mến.
Lạy nước bởi nương long Chúa Kitô, xin tẩy rửa con.
Lạy sự thương khó Chúa Kitô, xin thêm sức cho con.
Lạy Chúa Giêsu nhân ái, xin nhận lời con.
Xin giấu ẩn con trong các vết thương Chúa.
Xin cho con đừng bao giờ lìa xa Chúa.
Xin gìn giữ con khỏi kẻ thù tinh quái.
Đến giờ lâm tử, xin Chúa gọi con, và cho con đến cùng Chúa,
để con được cùng các thánh ca tụng Chúa muôn đời. Amen.
Chặng 13: Tháo Xác Chúa Giêsu Khỏi Thập Giá
–Lời Chúa theo thánh Luca:
“Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.” (Lc 23,47-48).
–Suy ngắm:
Bầu không gian yên lặng lột tả hết nỗi buồn của từng người khi chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chết, nhưng Ngài sẽ sống lại. Giáo hội tin rằng: “Dù vô tội, Chúa Giêsu cũng chọn cái chết để từ bỏ mình và tận hiến hoàn toàn trên thánh giá. [...]. Như thế, vì Tình yêu trọn hảo của Người, Người đã đem nhân loại trở về cùng Thiên Chúa.” (Youcat 101).
Những câu chuyện trên đây chúng ta có thể tìm thấy trong Kinh Thánh. Mỗi trang Tin mừng là thông điệp yêu thương Thiên Chúa dành cho con người. Để biết Đức Giêsu, không có cách nào tốt hơn việc đọc Kinh Thánh và suy gẫm về nó với tất cả ước ao và tâm tình. Chúa Giêsu đến từ trời cao, hạ sinh vào kiếp người; Ngài bị giương cao trên thập giá, giờ được đưa xuống để chờ thời khắc phục sinh. Đây chính là đỉnh cao của sứ điệp Tin Mừng của Đức Giêsu: cái chết[23] và phục sinh[24] mà chúng ta đang chiêm ngắm.
–Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Giờ này con thử tìm về,
đồi Can-vê vắng nặng nề tâm tư.
Không gian ánh nắng giã từ,
Để lại khoảng trống tâm tư u buồn.
Cảnh xưa con chợt bồn chồn,
Tâm tưởng nhớ Chúa mà hồn xuyến xao.
Thương cho thân phận thuở nào,
Vì đâu con Chúa ngất cao khổ hình?
Thân đòn mắt lệ tay đinh,
Chịu thay nhân loại tội tình đau thương.
Khổ hình không chút vấn vương,
Cho con được sống miên trường cùng Cha.
Trên đồi hoang vắng con ca,
Con đường Chúa đã đi qua một lần.
Giờ đây không chút ngại ngần
Cho con vững bước theo chân Cha lành. Amen
Chặng 14: Táng Xác Chúa Giêsu Trong Huyệt Đá
– Lời Chúa theo thánh Gioan:
“Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do Thái. Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.” (Ga 19,40-41).
–Suy ngắm:
Sau một hành trình mệt mỏi ròng rã với cây thập giá, giờ đây thân xác Đức Giêsu được yên nghỉ trong ngôi mộ. Với cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đã đi xuống tận cùng nỗi đau của nhân loại. Để từ đó, Ngài đem mỗi người chúng ta trở về với Chúa Cha. Nếu Đức Giêsu không sống lại, chúng ta không có Kinh Thánh Tân Ước, không có Giáo hội (1Cr 15,14-19). Sự thật là Đức Giêsu lúc này đang chờ ngày thứ nhất trong tuần để phục sinh[25], để minh chứng Ngài chính là Thiên Chúa thật.
– Chúng ta cùng cầu nguyện:
Lạy Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, chúng con sầu buồn với cái chết của Ngài lúc này. Là Kitô hữu, là môn đệ của Ngài, chúng con tin Chúa Giêsu sẽ sống lại. Bởi chúng con biết rằng: Biến cố Chúa Giêsu chết và sống lại của Ngài đã trở thành tâm điểm của Kitô giáo. Đó là điểm tựa cho đức tin của chúng con, là đòn bảy mạnh mẽ cho tin tưởng vững chắc, là luồng gió mạnh quét sạch mọi sợ hãi, và lưỡng lự, mọi hồ nghi và tính toán của loài người[26]. Được như thế, chúng con tiếp tục bước đi trong Hội thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ. Amen.
Kết Thúc
Anh chị em thân mến,
Tạ ơn Thiên Chúa đã cho chúng ta đi một chặng đường dài với Đức Giêsu và với nhau. Đó là ý nghĩa của hiệp hành. Chúng ta tin rằng: “Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể bao hàm tất cả mọi khía cạnh của con người, cả những góc độ đối lập nhau cũng có thể hợp nhất, vì tất cả đều qui tụ về Thiên Chúa. Chỉ có sự hợp nhất và vô biên của Thiên Chúa mới có thể làm cho con người hòa hợp, vì Thiên Chúa không loại trừ một thành phần nào.”[27]
Xin Chúa đến giúp chúng ta, ban cho chúng ta ơn bắt đầu và lại bắt đầu. Xin Chúa cho chúng ta ơn biết cậy trông, ngay cả những khi cùng đường tuyệt vọng. Xin Chúa củng cố lòng tin để chúng ta tin chắc rằng thập giá Chúa đã, đang và sẽ luôn mang lại chiến thắng, một chiến thắng huy hoàng nơi cuộc đời chúng ta.
***
Giờ đây để kết thúc, chúng ta cùng đọc một Kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh...
TẢI VỀ FILE WORD VÀ FILE PDF
NIHIL OBSTAT: 22–02–2023
Phanxicô Xaviê Nguyễn Hai Tính, SJ
Censor Librorum
IMPRIMI POTEST: 27–03–2023
Giuse Phạm Tuấn Nghĩa, SJ
Giám Tỉnh Dòng Tên
Mùa Chay 2023
Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố này nhắc nhở cho người Ki-tô hữu thời gian Mùa Chay không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm đau khổ và sự chết, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang. Đó cũng là bài học mà Bài Đọc I và Bài Đọc II nhắc nhở cho chúng ta.
St 12: 1-4
Bài đọc I, trích từ sách Sáng Thế là chuyện kể về ơn gọi của ông Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài. “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).
2Tm 1: 8b-10
Viết cho Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhở tính hiệu quả tâm linh của sự đau khổ: vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho việc loan báo Tin Mừng sinh hoa kết trái thiêng liêng và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.
Mt 17:1-9
Tin Mừng hôm nay là bài tường thuật về cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố này được đặt trong văn mạch với việc Đức Giê-su lần đầu tiên tiên báo cuộc thương khó của Ngài (x. Mt 16:21-23). Lời loan báo này đã gây nên cơn choáng váng đối với các môn đệ của Ngài. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao và ở đó Ngài thay đổi hình dạng trước mắt các ông để nói với các ông: Đau khổ và tử nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà là sự khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh hiển. Vì thế, biến cố Biến Hình là một sự tham dự trước Phục Sinh vinh quang.
BÀI ĐỌC I (St 12 : 1-4)
Phần thứ nhất của sách Sáng Thế (ch. 1-11) gợi lên nguồn gốc thế giới và nhân loại. Phần thứ hai (ch. 12-50) tường thuật nguồn gốc dân Do Thái và lịch sử các Tổ Phụ của họ. Bài đọc I, trích từ đoạn đầu phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.
1. Ơn gọi (St 12: 1):
Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.”
Lời dẫn nhập này quy chiếu đến những sự kiện trước đó của chương 11. Ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, sống ở Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Lúc đó, miền này chưa được gọi Can-đê (danh xưng này chỉ xuất hiện trong các bản văn vào thế kỷ XI BC), nhưng là Su-me trong đó thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ này. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua, quê hương của mình, cùng với bộ tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng Ông Te-ra cùng bộ tộc của mình dừng lại ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và định cư lập nghiệp ở đó. Nhưng ông Áp-ra-ham tiếp tục cuộc hành trình của mình về một vùng đất xa lạ. Phải chăng ông muốn thực hiện ước nguyện của cha ông khi rời bỏ thành Ua: “đi tới đất Ca-na-an”? Thật ra, ông Áp-ra-ham chỉ quyết định rời bỏ Kha-ran sau khi cha ông qua đời (x. Cv 7: 4)
Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Hay phải chăng nhà biên soạn Kinh Thánh phát hiện, không phải vô căn cớ, ở nơi cuộc hành trình này một biến cố quan phòng? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về lộ trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.
Vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất, loại bỏ các vị thần khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en.
Khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi nơi ông một hành vi đức tin: cắt đứt mọi ràng buộc của quê hương và họ hàng để ra đi đến một miền đất chưa được xác định: “đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người.” Hơn nữa, vào lúc đó, Ngài chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Chúa đã truyền cho ông” .
Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai Cập, đoạn đến Khép-rôn mà A-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó mật thiết với Thiên Chúa hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong sự tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.
Đây là khuôn mẫu của các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước: Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … ; Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân.
Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ dứt khoát từ bỏ như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài cũng một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, cũng như những ai mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, hay “Hãy đi, đức tin của con đã cứu con”, hoặc “hãy chỗi dậy và đi !”.
2. Lời Hứa (St 12: 2-4):
“Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…”
Đây là lời hứa đầu tiên và sẽ còn tiếp tục nhắc đi nhắc lại trong suốt truyện dài nhiều tập của tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng những gì hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực tế trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già không con này, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé này, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không cân xứng với những gì mà ông có trong hiện tại: một kẻ lang bạt lên đường đến một miền đất xa lạ.
Ông Áp-ra-ham là vị tổ phụ mà truyền thống Ít-ra-en đã luôn luôn xem ông là cha của Lời Hứa, lời hứa này đã làm cho ông trở thành một dân riêng, một dân mà Thiên Chúa ưu ái. Chính Lời Hứa này mà ông sống.
Biểu thức đầu tiên này của Lời Hứa đã được biên soạn dưới triều đại vua Sa-lô-mon. Đó là thời kỳ hoàng kim; thể chế vương quyền Ít-ra-en thụ hưởng một uy thế lẫy lừng khắp thiên hạ. Làm thế nào hiện tại huy hoàng này đã không gợi nhớ về một quá khứ xa xưa, bởi vì hiện tại làm chứng cho việc Thiên Chúa thực hiện những lời hứa của Ngài nhỉ? “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng…”
3. Chúc phúc.
Lời chúc phúc là dấu chỉ hữu hình của tấm lòng nhân hậu Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hiệu quả và nhắc nhớ ý muốn cứu độ hoàn vũ của Thiên Chúa. Những lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham. Chính ông cũng sẽ là một dấu chỉ, nhưng lại là một dấu chỉ mâu thuẫn: “Ta sẽ chức lành cho những ai chúc lành cho người; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.” Tuy nhiên Thiên Chúa khẳng định rằng nhờ ông mà muôn dân tộc sẽ được chúc phúc.
Lời chúc phúc này mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo phân loại của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của Kham và Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một con người, một dân tộc, trong khuôn mẫu lịch sử để truyền đạt Giao Ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân muôn nước trên mặt đất, ngay từ khởi thủy của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc này rồi. Vì thế, trong lời chúc phúc này vốn hàm chứa chiều kích hoàn vũ của Ki-tô giáo rồi.
3. Viễn cảnh thần học:
Tác giả Gia-vít là người đã suy niệm về sự cao cả nguyên thủy của con người và sự thất bại mà tội lỗi đã gây ra (x. St 2: 4-19). Cũng chính ông đã nhắc nhớ tội huynh đệ tương tàn của Ca-in, lụt Đại Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong sự ác, và là đối tượng của những trừng phạt và chúc dữ của Thiên Chúa.
Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng phục Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ A-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa này, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ : “Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành”.
Tổ phụ A-bra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục này, trong khi tìm kiếm một nơi cầu nguyện : Xi-khem, Bê-then…
Từ cuộc sống du mục này, tác giả thư gởi tín hữu Do Thái đã rút ra tầm mức tâm linh: “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng… Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được.” (Dt 11: 8-12).
BÀI ĐỌC II (2 Tm 1:8-10)
Thư thứ hai gởi cho Ti-mô-thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma; và cảnh giam cầm rất nghiêm nhặt, thánh nhân “phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2 : 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.” (2Tm 4 : 6-8).
1. Ti-mô-thê:
Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã lưu ý đến ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (x. Cv 16 : 1-3).
Ông Ti-mô-thê, cha là người Hy Lạp, còn mẹ là người Do Thái đã theo Ki-tô giáo, đã được mẹ ông: bà Êu-ni-kê, và bà ngoại của ông: bà cụ Lô-ít, dạy dỗ, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn liếng kiến thức sâu xa về Kinh Thánh.
Hai người đã cộng tác với nhau vô cùng thân thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có Ti-mô-thê là người đồng gởi, có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-sô để đảm bảo công việc tông đồ được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi “Các Thư Mục Vụ”, vì trong những thư này, vị Tông Đồ cho các vị kế nghiệp ngài những huấn thị của ngài.
2. Lý do của bức thư:
Vào lúc đó, Giáo Đoàn Ê-phê-sô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Đối diện với những trào lưu tư tưởng, một thái độ duy nhất, rất vững chắc: “loan báo Tin Mừng”. Thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc nhở cho ông Ti-mô-thê rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo đi được.
3. Tính hiệu quả của sự đau khổ:
Để lời khích lệ mình có kết quả, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình: “Hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng”. Sự đau khổ này sẽ làm cho lời công bố của anh sinh hoa kết trái. Lời mời gọi này nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi cho Giáo Đoàn Cô-lô-sê : “Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.” (Cl 1:24).
4. Ơn gọi tông đồ:
Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy Thiên Ân, không có liên hệ gì với “công kia việc nọ ta làm”. Những lời này âm vang bài đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý đi đôi với đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống : chính ngài, xưa kia là một Biệt phái, thành tâm thiện chí với những việc lành phúc đức của mình, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài một cách nhưng không.
5. Sự chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh:
Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao gồm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Ki-tô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được hiển thị qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.
Trong những bức thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự; chắc chắn trong đoạn thư này, nhờ mạch văn, những diễn ngữ này có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết trong lòng Giáo Đoàn Ê-phê-sô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Vị sứ đồ ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.
Bức thư này không được gởi cho một cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều này trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn này mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu là chứng nhân cho Đức Ki-tô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư này. Như Karl Gatzweiler nhận định: “Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn này. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn này nhắc nhở cho mọi người Ki-tô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” (trích từ “Parole sur le chemin”, tr. 52).
TIN MỪNG (Mt 17:1-9)
Bài tường thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài tường thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng một trong những bài tường thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố này và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su. Đức Giê-su đã hỏi các tông đồ của Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Thánh Phê-rô đáp: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nghĩ rằng giây phút đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã phật ý. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.
Ở đây chúng ta sẽ khảo sát câu chuyện dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su, và đối với các nhân chứng.
1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su :
Biến cố Biến Hình là một nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Đức Giê-su trong thân phận con người trên con đường tiến về cuộc Tử Nạn của Ngài, Chúa Cha mang đến cho Ngài một sự an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang này Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua.
- Thời điểm:
“Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao.”
Bài tường thuật bắt đầu với “Sáu ngày sau.” Diễn ngữ thời gian này, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài tường thuật tiếp theo sau nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài tường thuật đi trước. “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, là Con Thiên Chúa (Mt 16:16). Bài tường thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị.” (Mt 16:28). Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy trong câu nói bí nhiệm này lời loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt: “trong số người có mặt ở đây” có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình này. Thêm nữa, “Sáu ngày sau” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt này mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người sau này cũng sẽ tham dự vào lời cầu nguyện của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26:37).
Vì thế, “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ có thể và phải nghe cùng vâng lời, tín thác cùng đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang bằng thập giá” (Guillemette, L’Evangile de Mt, 195).
Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng này ? Thánh Lu-ca hé cho chúng ta thấy câu trả lời : “Ngài lên núi để cầu nguyện.” (Lc 9 : 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, việc núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì, “trên ngọn núi cao”: chi tiết không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi này sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc thần hiện.
- Vinh quang của Đức Giê-su:
“Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.”
Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su như con người rạng ngời của Ngài, trong khi thánh Lu-ca đặt sự biến đổi hình dạng này trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Ngài thân thưa với Cha của Ngài. Biến cố Biến Hình này mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có toàn quyền trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là một sự tham dự trước vinh quang Phục Sinh của Ngài.
- Ông Mô-sê và ông Ê-li-a :
“Và bỗng ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người”.
Chính cũng trên một ngọn núi này (Xi-nai, Khô-rếp) mà ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp Thiên Chúa. Trong biến cố Biến Hình này, sự hiện diện của hai ông là một bảo lãnh tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai nhân vật này được xem như tiền hô của Đấng Mê-si-a: ông Mô-sê đã loan báo rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (x. Đnl 18 : 18); còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho việc Đấng Mê-si-a ngự đến.
Hơn nữa, hai nhân vật này hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao Ước. Như vậy, họ đại diện bước khởi đầu và điểm chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu và Tân Ước.
Bài tường thuật của Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về “cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9 : 31). Từ ngữ “xuất hành” nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian nan nhất của dân Ít-ra-en : ra khỏi đất Ai Cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn đưa họ đến Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian nan nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang.
2. Biến cố Biến Hình đối với các nhân chứng :
Cuộc Biến Hình chỉ có ba nhân chứng : Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Trước đây, cũng chính ba môn đệ này được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (x. Mc 5 : 37). Cũng chính ba môn đệ này mà sau này Đức Giê-su dẫn theo với Ngài trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ là những nhân chứng cơn hấp hối của Ngài (x. Mt 26:37). Trước đây trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ này chứng kiến quyền năng của Ngài trên cả sự chết (x. Mc 5 : 37) và nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển này, họ còn nghe Chúa Cha minh chứng về Đức Giê-su (x. Mt 17:5), để rồi sau này trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.
Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự củng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê : “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Vị lãnh tụ của các Tông Đồ sau này sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, lúc này chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển, ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.
Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài… Ngài là ánh sáng, ánh sáng thật… đầy tràn ân sủng và sự thật…” Ẩn hiện sau Tựa Ngôn này là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.
- Phản ứng của Phê-rô:
Trong chương này, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình ông Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ mình ông bày tỏ nỗi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Tử Nạn. Trong câu chuyện này, ông cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, năng nổ, nghĩ sao thì nói vậy, ông Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh này lại khi đề nghị dựng ba lều : một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu ý kiến như vậy, ông không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể ông nghĩ đến ý nghĩa của ngày lễ Lều, ngày lễ tưởng niệm các chi tộc Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa: biểu tượng cho niềm mong đợi thời Mê-si-a. Theo truyền thống Do Thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ở giữa dân Ngài (x. Ed 37 :27 ; Hs 12:10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Mê-si-a của họ (x. Ga 1:14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng này, có thể trong tiềm thức, ông Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Mê-si-a. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên trái đất ngỏ hầu cuộc thần hiện trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.
- Cuộc Thần Hiện :
“Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông”.
Biết bao lần trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa trước mắt của phàm nhân, vì thế, đám mây sáng ngời là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 40 : 34-35 ; 1V 8 : 10-12 ; Ed 10 : 3-4 ; Tv 18 : 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả. Tuy nhiên, ở đây không còn là “các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người”, nhưng “dung mạo Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là, ở nơi Đức Giê-su Thực Tại Thiên Quốc, hay chính Thiên Chúa đích thân hiện diện. Lời công bố tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su không chỉ nhấn mạnh sự tuyển chọn đặc sủng, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Huấn lệnh này xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trong miệng của Đấng ấy, vì thế “Các ngươi hãy nghe vị ấy” (Đnl 18 : 15). Vì thế, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ nên một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại, như Đức Giê-su truyền lệnh cho họ. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.
- “Chỗi dậy đi”:
Các tông đồ đã thấy cử chỉ này rồi và đã nghe những lời này rồi, đó là vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia. Đức Giê-su dùng cũng một động từ: “Chỗi dậy” để chỉ biến cố Phục Sinh sau này của Ngài : “Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết”.
Vào lúc này, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn này. Sau này, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia, tiếp đó, cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gio-an, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng : “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3:2). Thánh Phao-lô cũng viết: “Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3 : 21).
Tác giả bài viết: Lm. Inhaxiô Hồ Thông
https://gphaiphong.org/hoc-hoi-loi-chua/chu-giai-loi-chua-chua-nhat-ii-mua-chay-nam-a-10539.html
Làm một với cuộc biến hình của Chúa

https://gpcantho.com/lam-mot-voi-cuoc-bien-hinh-cua-chua/
Các bạn thân mến!
Thông thường khi nói đến mùa chay, chúng ta nghĩ ngay đến việc sám hối. Vậy thì sám hối có giá trị gì và nó có liên quan gì đến ngày lễ Chúa biến hình hôm nay. Sám hối là tiến trình mỗi người mang cuộc biến hình của mình vào cuộc biến hình của Chúa. Thực ra sám hối là một tiến trình hoán cải (Metanoia) bằng sự quảng đại hiến mình (Kenosis), và sự hiến thân phục vụ (Diakonia) và trong sự hiệp thông (Koinonia) giữa Thiên Chúa và con người, và giữa người với người.[1] Để có thể sống tinh thần mùa chay và dấn thân vào việc sám hối thực sự, chúng ta cần chấp nhận được biến hình bằng việc chấp nhận sự từ bỏ, tham gia vào mối mối hiệp thông và việc lắng nghe Lời Người.
Biến hình là chấp nhận sự từ bỏ
Sám hối là tiến trình tham gia của cuộc biến hình cá nhân vào cuộc biến hình của Thiên Chúa. Abram là người đã lắng nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa. Nhờ cuộc biến hình cá nhân ngang qua việc sống vâng phục trong đức tin mà không chỉ ông và cả dân tộc của ông được chúc phúc. “1 Hồi ấy, Đức Chúa phán với ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.”[2] Abram đã chấp nhận tử bỏ để trở nên lớn lao. Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe cũng cho thấy tiến trình biến đổi cá nhân vào cuộc biến hình của Thiên Chúa. Bối cảnh của đoạn Tin Mừng diễn ra khi Chúa Giê-su đem ba môn đệ thân tính lên núi “tĩnh tâm.” Đang khi người cầu nguyện thì dung mạo người đổi khác, y phục người trở nên trắng tính. Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông và bày tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Một mặt cuộc biến hình của Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài. Cũng giống như Thiên Chúa đã từng biểu lộ vinh quang của Ngài cho Mô-sê. Sau thị kiến của Mô-sê với Thiên Chúa trên núi Sinai, khuân mặt ông trở nên sáng láng. Chúa Giê-su là hình ảnh Mô-sê mới cũng trở nên sáng láng sau khi diện kiến Thiên Chúa. Dĩ nhiên bản thân Ngài cũng là Con Thiên Chúa. Mặt khác cuộc biến hình cũng mời các ông sống sự hoán cải, thay đổi cái nhìn về thực tại, về chính mình và về Thiên Chúa.
Theo Lonergen, hoán cải tôn giáo diễn ra ở ba cấp độ: hoán cải tri thức, hoán cải luân lý và hoán cải thiêng liêng.[3] Hoán cải tri thức là sự biến đổi từ chân trời tri thức cảm giác đến tri thức qua trung gian ý nghĩa, được mặc khải cho chúng ta qua tiến trình của kinh nghiệm, phán đoán và đức tin. Hoán cải tri thức mời gọi chúng ta phân biệt giữa chân lý tự thân và chân lý cho ta. Chân lý tự thân có tính khách quan, còn chân lý cho ta mang tính chủ quan. Hoán cải tri thức mời gọi chúng ta thay đổi cái nhìn và tri nhận chân lý từ tri thức chủ quan đến chân lý khách quan.[4] Còn hoán cải luân lý là sự thay đổi tiêu chuẩn luân lý từ luân lý mang tính đền bù (tội lỗi) đến luân lý mang tính giá trị. Tôi làm điều tốt không chỉ vì do việc đền bù tội lỗi của tôi nhưng do chính giá trị đó là tốt nên tôi làm. Hoán cải tôn giáo giống như kinh nghiệm được tình yêu chiếm hữu, ân sủng thánh hóa (Augustine), giống như Karl Rahner định nghĩa hóa cải là tự nguyện chấp nhận kinh nghiệm tôn giáo nền tảng của khuynh hướng không thể “thoát khỏi” của con người hướng về mầu nhiệm mà chúng ta gọi là Thiên Chúa. Nói một cách đơn giản hoán cải là sự thay đổi toàn thể lối sống theo khao khát tối hậu. Hoán cải tôn giáo là hoạt động nền tảng của ngã siêu việt khai mở cho một người thực tại sung mãn đằng sau cái ngã.[5] Như thế bất cứ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa một cách đích thực nào đều dẫn đến sự thay đổi những tiêu chuẩn và hành vi chọn lựa.
Biến hình là bước vào tương quan thân mật của Cha và con
Kinh nghiệm biến hình khởi từ và dẫn vào tương quan thân mật Cha và Con. Tin Mừng cho thấy, trong cuộc biến hình, các môn đệ được ánh sáng bao phủ. Trong ánh sáng đó, các môn đệ nghe được tiếng Chúa Cha nói về Chúa Con. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !”[6] Chúa Cha mặc khải căn tính thần linh và mối tương quan thân mật của Cha và Con cho các môn đệ. Nếu như trong lời tuyên xưng của Phê-rô, Chúa Giê-su đã mặc khải căn tính Thiên Sai của Ngài thì nơi cuộc biến hình trên núi, trong cuộc thần hiện này, Chúa Cha đã mặc khải tương quan thâm sâu của Ngài và Chúa Con cho các môn đệ. Chỉ ở trong sự thân mật này mà chúng ta được trở nên người con và người đồng thừa tự với Thiên Chúa.
Khi được bước vào tương quan thân thiết và cá vị với Chúa, con người cảm thấy bất xứng, sợ hãi. Đứng trước sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa, con người cảm thấy bất xứng. Kinh nghiệm được Chúa dụng chạm làm cho các ông hoảng hốt. “6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo : “Trỗi dậy đi, đừng sợ !”[7] Điều cần thiết khi được Thiên Chúa đụng chạm là đứng lên và can đảm sống điều Chúa mời gọi.
Biến hình là vâng nghe Lời Người.
Lời của Chúa Cha nói với mỗi người chúng ta. “Hãy vâng nghe Lời Người.” Lời đó là ngôi vị, lối sống, giáo huấn. Lời có sức biến đổi, chữa lành và phục hồi. Lời đó mời gọi mỗi người chúng ta sống giáo huấn của Chúa trong môi trường cá nhân, cộng đoàn và gia đình. Nói cách khác vâng nghe lời Người là sống kinh nghiệm cuộc biến hình mỗi ngày, là được lên núi với Chúa, gặp gỡ được ánh sáng, là hoán cải con tim, để cho ánh sáng chạm vào và trở nên chứng nhân ánh sáng bằng đời sống phục vụ. Cuộc biến hình cá nhân chỉ có thể diễn ra nếu mỗi người được tham dự vào cuộc biến hình của Chúa Ki-tô. Cuộc biến hình trên núi Tabor giúp các môn đệ tiền dự vào mầu nhiệm phúc sinh nhưng cuộc biến hình nơi cái chết và sự phục sinh mới là cuộc biến hình toàn diện. cuộc biến hình đó đụng vào chiều sâu hiện hữu và toàn thể thực tại. Cuộc biến hình đó diễn ra nơi Thập Giá và nơi Ngôi Mồ Trống, nơi mà cái chết và sự phục sinh của Chúa đụng chạm đến mỗi người và với toàn thể thụ tạo.
Vâng nghe là đón nhận Tin Mừng đã được biểu lộ cách nhưng không cho chúng ta và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. “Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.”[8] Vâng lời là dấn thân phục vụ cho sự sống, là đem kinh nghiệm trên núi vào đời, là biến đổi từ văn hóa sự chết thành văn hóa sự sống, là đứng lên để làm chứng cho Chúa.
Trong sứ điệp mùa chay năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxico vạch ra hai lộ trình để cùng lên núi với Chúa và cùng với người đạt mục tiêu.[9] Lộ trình thứ nhất xuất phát từ mệnh lệnh của Chúa Cha. “Hãy lắng nghe lời Người !” Mùa Chay là thời gian để chúng ta lắng nghe lời mời của Chúa Giê-su ngỏ với chúng ta. Ngài có nhiều cách ngỏ với chúng ta. Tuy nhiên Đức Thánh Cha Phanxico đề nghị hai cách lắng nghe Chúa Giê-su là lắng nghe Lời Chúa trong phụng vụ và lắng nghe Lời Chúa trong anh chị em khác. Thế giới này nay, người ta thích động hơn thích tĩnh. Một phần là bởi vì động có vẻ làm cho người ta dễ bị cuốn hút. Đôi khi người ta không biết làm gì khi người ta ở lại trong sự tĩnh lặng. Tuy nhiên nên nhớ rằng tĩnh lặng không đồng nghĩa với sự trống rỗng nhưng tĩnh lặng bao gồm sự tròn đầy. Lộ trình thứ hai mời gọi chúng ta hướng về mục tiêu của mùa chay là hướng về Đức Ki-tô. “Mùa Chay hướng về Lễ Phục Sinh: “tĩnh tâm” tự nó không phải là mục đích, nhưng là phương thế chuẩn bị cho chúng ta trải nghiệm cuộc khổ nạn và thập giá của Chúa Giêsu với đức tin, đức cậy và đức mến, hầu đạt tới sự phục sinh.” Mùa chay là thời gian để lắng nghe lời Thiên Chúa ngỏ với con người qua Thần Khí của Người và qua Đức Ki-tô. Dĩ nhiên để có thể lắng nghe được mỗi người cần một sự hoán cải liên tục trong việc không ngừng mở ra không gian nội tâm cho sự hoạt động của Thần Khí, và cho sự thiện. Đồng thời hướng đến Đức Ki-tô như là đích điểm của hành trình đối thoại. Nói cách khác hoán cải là tiến trình mỗi cá nhân tham gia vào cuộc biến hình của Chúa Giê-su từ việc bước vào mối tương quan thân mật giữa Cha và Con bằng một đời sống quảng đại hiến dâng phục vụ. Với những gợi ý trên, một cách cụ thể, đâu là khía cạnh trong đời sống của tôi cần để cho cuộc biến hình của Chúa đụng chạm và biến đổi? “Lạy Chúa, xin hãy dạy con, lạy Chúa, xin biến đổi con. Không đợi an ủi nhưng đem ủi an. Không đợi người giúp nhưng tìm giúp người. Không đợi yêu thương nhưng gieo tình mến…”[10]
Gioan Phạm Duy Anh SJ
[1] https://www.hprweb.com/2014/01/communion-community-and-communication/
[3] Giovanni B. Sala, S.J. Theological Aspects of Bernard Lonergan’s “Method in Theology, ” Translated by Donald E. Buzzelli (http://www.lonergan.org/dialogue_partners/Sala/theological_aspects_of_bernard_l.htm)
[4] Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương, Hướng Tới Sự Hoán Cải Toàn Vẹn, 01/04/2019
[5] https://www.encyclopedia.com/religion/encyclopedias-almanacs-transcripts-and-maps/conversion-ii-theology
[9] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-mua-chay-nam-2023-cua-duc-thanh-cha-phanxico-50301
[10] Lê Quang Ánh, Lời Kinh Cuộc Đời (https://thanhcavietnam.net/LoiNhac/showthread.php?t=5393) Truy cập ngày 27/02/2023
Hằng năm, vào Chúa Nhật I Mùa Chay, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta câu chuyện Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa. Vì thế, vào năm A này, phụng vụ mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm bài tường thuật Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa theo Tin Mừng Mát-thêu.
St 2: 7-9; 3: 1-7
Chính trong năm A này mà Bài Đọc I có mối tương quan trực tiếp nhất với bản văn Tin Mừng. Đoạn trích từ sách Sáng Thế mô tả, theo hình thức gợi hình, sự thử thách của người phụ nữ đầu tiên. Được đặt trước một sự chọn lựa: hoặc nương tựa vào Đấng Tạo Hóa, hay tự mình quyết định theo sự tự do của riêng mình, người phụ nữ này sa ngã trước sự thử thách và kéo theo nhân loại.
Rm 5:12-19
Trong Thư gởi cho Giáo Đoàn Rô-ma, thánh Phao-lô gợi lên nhân loại từ nguyên thủy mang lấy dấu ấn của tội lỗi, nhưng nhờ Đức Giê-su, cắt đứt với A-đam và được tái sinh trong muôn vàn ân sủng.
Mt 4:1-11
Tin Mừng Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa. Xa-tan đề nghị cho Ngài những con đường cứu thế khác với con đường thập giá mà Chúa Cha đã chọn.
BÀI ĐỌC I (St 2: 7-9; 3: 1-7)
Sách “Sáng Thế” là cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Chính nhan đề của sách nói lên đề tài của sách: trước hết, nguồn gốc của vũ trụ và nhân loại; đoạn, nguồn gốc của dân Do Thái và lịch sử các Tổ phụ.
1. Hai chuyện tích về Cuộc Sáng Tạo:
Sách Sáng Thế bắt đầu với hai chuyện tích về Cuộc Sáng Tạo. Chuyện tích thứ nhất (St 1: 1-2: 4a) được biên soạn bởi truyền thống Tư Tế (P) vào thế kỷ IV trước Công Nguyên. Tiếp liền ngay sau đó, là chuyện tích thứ hai, cổ xưa hơn (St 2: 4b-25), được biên soạn bởi truyền thống Gia-vít (J) vào thế kỷ X trước Công Nguyên.
- Chuyện tích thứ nhất thuật lại cuộc sáng tạo trong sáu ngày theo cái khung của một tuần lễ Do Thái mà đỉnh cao là ngày thứ bảy, ngày sa-bát. Chuyện tích này hình thành nên một đơn vị nhờ kỹ thuật đóng khung, bắt đầu với “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo nên trời đất” (St 1: 1) và kết thúc với: “Đó là nguồn gốc trời đất khi được sáng tạo.” (St 2: 4a). Bằng văn thể trang trọng có nhịp điệu của một bài thánh thi phụng vụ, tác giả truyền thống Tư Tế cho chúng ta biết làm thế nào Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật một cách tốt đẹp trong đó con người là tuyệt hảo nhất (St 1: 31). Con người được tạo dựng tuyệt hảo nhất, vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người sau cùng như tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo của Ngài. Thêm nữa, trước khi sáng tạo con người, Thiên Chúa thảo luận; nhất là, Ngài đã tạo dựng con người “theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”.
- Chuyện tích thứ hai bắt đầu với “Ngày Đức Chúa làm ra đất và trời”. Như vây, diễn ngữ “trời đất” trong câu dẫn nhập của chuyện tích thứ nhất có nghĩa toàn thể vũ trụ, trong khi diễn ngữ “đất và trời” trong câu dẫn nhập của chuyện tích thứ hai muốn nói lên công trình sáng tạo của Thiên Chúa khởi sự nơi mặt đất, ở đó con người là trung tâm: trước khi Thiên Chúa sáng tạo con người, đất vẫn còn hoang vu không có sự sống, chưa có gì mọc lên. Bằng ngôn ngữ hình tượng và cách miêu tả Thiên Chúa như nhân, tác giả Gia-vít tường thuật cuộc sáng tạo con người: thay vì nói: con người gồm có thân xác (một ngày kia sẽ bị mục nát) và linh hồn (thần thiêng, và vì thế bất tử), tác giả miêu tả Thiên Chúa như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên hình người, đoạn thổi sinh khí vào lỗ mũi để con người trở nên một sinh linh. Sau đó, Ngài đặt con người vào trong vườn địa đàng và ban cho con người mọi thứ cần thiết để được sống hạnh phúc trong đó.
2. Những nét đặc trưng của chuyện tích thứ hai:
Trong chuyện tích thứ hai này, chuyện kể về “cuộc sáng tạo con người” được tiếp tục bởi chuyện kể về “Thử Thách và Sa Ngã” (x. St 3: 1-7), vì thế, chuyện kể thứ nhất kết thúc với: “Cả hai trần truồng mà không xấu hổ” (St 2:25) và chuyện kể thứ hai kết thúc với: “Họ thấy mình trần truồng” (St 3: 7) như hậu quả của việc sa ngã. Cũng bằng ngôn ngữ hình tượng, tác giả miêu tả sự sa ngã của con người, bi kịch hóa cuộc xung đột nội tâm của con người: con rắn (quỷ dữ) nói chuyện với con người.
Tuy nhiên, tác giả không dừng lại ở nơi việc con người đầu tiên sa ngã như một tương lai vô vọng không lối thoát, nhưng tiếp tục với chuyện kể về án phạt và lời hứa cứu độ (St 3: 8-24). Như vậy, qua ba chuyện kể liên tục này, tác giả muốn giới thiệu lịch sử cứu độ và đưa ra lý do đầu tiên: tội của con người và niềm hy vọng tương lai được thoáng thấy ở nơi lời hứa cứu độ: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3: 15).
Cả ba chuyện kể này bày tỏ những nét đặc trưng của truyền thống Gia-vít. Ngay từ đầu Thiên Chúa được gọi là Đức Chúa (“Gia-vê”) chứ không phải chờ đợi mãi cho đến lúc Thiên Chúa mặc khải danh này cho ông Mô-sê (Xh 3: 13-15). Ngoài ra, tác giả sử dụng văn phong bút trực tiếp và cụ thể: ông không ngại trình bày Thiên Chúa theo lối như nhân, nghĩa là Thiên Chúa hành xử như một con người. Và ông cũng không ngại dùng ngôn ngữ thần thoại. Chữ thần thoại được hiểu ở đây theo nghĩa đầu tiên của nó, tức là chuyện kể liên quan đến đấng siêu việt. Thần thoại tìm cách tiếp cận mầu nhiệm nhờ vận dụng hình ảnh và biểu tượng. Trong chức năng nguyên khởi của nó, thần thoại đã chuyển tải những suy tư nghiêm trọng nhất về nhân loại: “Đối với chuyện tích thứ hai về Cuộc Sáng Tạo, cách thức diễn đạt phù hợp với cách suy nghĩ của thời đại… Người ta có thể nói… rằng cốt là ngôn ngữ thần thoại. Quả thật, trong trường hợp này, thuật ngữ thần thoại không chỉ ra một nội dung huyền thoại, nhưng một cách thức cổ xưa để diễn tả một nội dung sâu xa hơn… Nội dung này đáng khâm phục ở nơi những điều liên quan đến những phẩm chất và độ đậm đặc của các chân lý mà nó chứa đựng” (ĐTC Gio-an Phao-lô II, Tiếp kiến chung thứ Tư 07/11/1979).
Văn sĩ thánh đã khai thác rất nhiều ở nơi kho tàng thần thoại này; nhưng ông sử dụng những chất liệu này một cách hoàn toàn tự do, đặt chúng vào trong bối cảnh mới và ban cho chúng một tầm mức thần học khác biệt tận căn.
Hai đoạn văn được đề nghị cho chúng ta hôm nay được trích từ chuyện tích thứ hai về cuộc Sáng Tạo: đoạn văn thứ nhất liên quan đến cuộc sáng tạo con người (St 2: 7-9) và đoạn văn thứ hai liên quan đến cuộc thử thách và tội nguyên tổ (St 3: 1-7).
A. CUỘC SÁNG TẠO CON NGƯỜI (St 2: 7-9)
(1) Con người, được sáng tạo đầu tiên trong số mọi sinh vật:
“Thiên Chúa đã lấy bụi đất nặn nên con người”.
Trong chuyện tích thứ nhất về Cuộc Sáng Tạo trong sáu ngày, người nam và người nữ được sáng tạo đồng lúc, vào cuối công trình của Thiên Chúa, như tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo. Trái lại, trong chuyện tích thứ hai: người nam được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật, và được sáng tạo một mình, không người nữ; người nữ sẽ xuất hiện sau này. Đây là cách thức mà tác giả Gia-vít sử dụng để nhấn mạnh quyền tối thượng của con người. Đấng Sáng Tạo sắp biểu lộ tất cả niềm ưu ái của mình đối với tạo vật đầu tiên của Ngài.
“Đất”, theo ngôn ngữ Hy Bá: “(ha)-a-đa-ma” (“ha”: mạo từ) từ đó tác giả rút ra danh xưng chung của con người: “(ha)-a-đam” (với mạo từ: “ha”), đoạn tên riêng “A-đam” (không mạo từ). Như vậy, chúng ta có thể hiểu tên A-đam ở đây như hiện thân mỗi một con người và tội của A-đam đồng nghĩa tội của tất cả chúng ta.
Việc sáng tạo con người được mô tả “Thiên Chúa lấy từ bụi đất nặn nên con người”, sau này, việc sáng tạo mọi sinh vật cũng được mô tả theo cùng một cách như vậy: “Thiên Chúa lấy đất nặn ra chúng” (St 2: 19). Tuy nhiên, sắc thái biệt phân rất tinh tế: con người và sinh vật có chung một xác thể, vì thế, sau này, khi con người phạm tội, Thiên Chúa nhắc nhở cho con người nguồn gốc mỏng dòn của nó: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3: 19); nhưng chỉ duy một mình con người mới được Thiên Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi”, chính sự khác biệt này nói lên chiều kích cao cả của con người trên mọi loại thụ tạo.
Việc Đấng Sáng Tạo được mô tả như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên con người thuộc về di sản chung của nhiều dân tộc xưa. Ở Ai Cập, chính thần Knoum sáng tạo nên con người bằng cách nặn nên họ hàng loạt trên bàn xoay của người thợ gốm. Ở Sumer, chính mẫu thần Nammu nặn nên con người đầu tiên; ở Ba-by-lon, thần Ea “với đôi tay của mình đã sáng tạo nên con người”; ở Hy Lạp, một bản văn thần thoại kể rằng thần Démiurge nhân ái đã nặn ra con người bằng đất sét thấm đẫm nước mắt của thần. Con người sinh ra từ đất, đó là niềm tin tưởng khá phổ biến vào thời đó. Nhưng, về cơ bản, chuyện tích Kinh Thánh khác biệt với các chuyện tích này, đó là, người thợ gốm thần linh là Đấng Sáng Tạo, từ đất Ngài nặn nên hình người và làm sinh động hình người ấy bằng sinh khí của chính Ngài.
(2) Con người, một sinh linh:
“Thiên Chúa thổi sinh khí vào lỗ mũi , và con người trở thành một sinh vật.”
Thiên Chúa thổi hơi vào hình người bất động và làm cho nó sinh động bởi hơi thở của chính Ngài. Theo ngôn ngữ Hy Bá, hơi thở và thần khí được diễn tả bởi cùng một từ. Thiên Chúa ban cho con người “thần khí của Ngài”. “Thần khí” này phát xuất từ Thiên Chúa, vì thế, con người sẽ hoàn lại cho Ngài khi họ trút hơi thở cuối cùng. Thánh Gio-an diễn tả cái chết của Đức Giê-su trên thập giá cũng bằng dụng ngữ này: “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19: 30).
Khi mặc khải ngôi vị của Thần Khí và ân ban của Ngài cho con người trong Đức Giê-su, Tân Ước đã cho khoa nhân loại của sách Sáng Thế chiều kích đích thật của nó. Cử chỉ của Đấng Sáng Tạo được lập lại trên mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa Tội để thổi hơi sự sống siêu nhiên vào họ, có nghĩa họ được tái sinh.
(3) Vườn Ê-đen:
“Đoạn, Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía Đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.”
Địa danh Ê-đen có nghĩa “khu vườn xinh đẹp”. Thiên Chúa đã làm nẩy sinh một ốc đảo kỳ diệu ở giữa mảnh đất trơ trụi nguyên sơ. Diễn ngữ “về phía Đông” có nghĩa là ở phía mặt trời mọc, dấu chỉ ánh sáng và sự sống.
“Thiên Chúa khiến mọc lên từ đất đai đủ mọi thứ cây trông đẹp mắt, ăn ngon miệng”. Trong khu vườn kỳ diệu này, cũng có hai loại cây không thuộc vào bất kỳ loại thảo mộc nào: “cây trường sinh” và “cây biết thiện ác”.
(4) Cây trường sinh và cây biết thiện ác:
“Cây trường sinh” là hình tượng cổ điển trong vùng Cận Đông xưa, đó là cây bất tử. Tính cách biểu tượng của nó được hỗ trợ bởi bóng dáng tự nhiên (cây cao bóng cả cành lá bốn mùa xum xê) và bởi chiều kích phụng vụ: trong những thánh điện, các vị thần linh được cho là nhờ ăn trái của cây này mà bất tử. Điều này được phản ảnh ở nơi St 3: 22: sau khi con người đã ăn trái cây này, Đức Chúa là Thiên Chúa nói: “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 3: 22).
“Cây biết điều thiện điều ác” là dụng ngữ sáng tạo của truyền thống Gia-vít. Có thể tác giả đã được gợi hứng, ít nhiều, từ một vị tiền nhiệm Ba-by-lon: ở lối vào nơi cư ngụ của các vị thần, có hai cây: cây trường sinh và cây chân lý. Chúng ta cũng gặp một cặp song đối nổi tiếng khác: thi hào Homère nói với chúng ta rằng trước đền thờ của các thần linh trên đỉnh núi Ô-lim-pơ, có hai chậu được chôn sâu dưới đất; một chậu chứa đựng những điều thiện, chậu kia chứa đựng những điều ác.
Ở nơi diễn ngữ “biết điều thiện điều ác”, từ “biết” chỉ sự hiểu biết do từ kinh nghiệm. Khác ngôn ngữ của những triết gia, ngôn ngữ Hy Bá thích liên kết những mâu thuẫn để nói lên cái toàn thể: vì thế, đây cốt là một sự khôn ngoan siêu phàm, một phẩm chất đặc biệt mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể sở hữu tròn đầy.
Đoạn trích dẫn ngắn hôm nay không kể ra việc Thiên Chúa canh giữ cây biết điều thiện điều ác này; tuy nhiên, phần tiếp theo câu chuyện cho thấy điều đó. Thiên Chúa ấn định cho con người một giới hạn bất khả vượt qua, nhưng Ngài không rào cây này để dành riêng cho Ngài; Ngài phó thác cho lương tri của con người.
Biết bao lần con người cảm nghiệm nỗi nhớ khôn nguôi về một “điạ đàng đã mất”. Nỗi hoài niệm da diết này diễn tả cảm thức bí hiểm cho thấy con người đã không được tạo dựng để mà chịu cảnh đời bất hạnh và đau khổ, nhưng có một mầu nhiệm của Sự Dữ. Nhiều dân tộc đã có những thần thoại về vườn địa đàng của mình, không chỉ ở Đông Phương xưa và Hy Lạp, nhưng trong những xã hội truyền thống của Châu Phi và Úc Châu… Ở đó người ta kể rằng con người đã đánh mất hạnh phúc, hay đã không đạt được hạnh phúc, vì do một lỗi phạm, một tai nạn, hay vì quên một mật hiệu, mà nguyên nhân được gán cho Ông Tổ, đôi khi cho một ác thần quỷ quyệt, đối thủ của Đấng Tối Cao. Nhưng chỉ ở nơi Ít-ra-en mà chúng ta mới gặp thấy hậu quả này được truy cứu lên cho đến tận nơi việc con người xúc phạm đến Đấng Sáng Tạo tốt lành và thánh thiện. Chính mầu nhiệm này mà tác giả linh hứng sắp toan tính minh giải.
B. THỬ THÁCH (St 3: 1-7)
Phần thứ hai của Bài Đọc I là phần đầu chương 3 của sách Sáng Thế, giới thiệu chuyện tích về cuộc thử thách và tội nguyên tổ. Đây là một đề tài rất phổ biến hay ít ra rất gần với đề tài quen thuộc của thể loại anh hùng ca: một vị anh hùng lấy cắp hay tìm cách lấy cắp một trong những đặc quyền của các vị thần: như ở Lưỡng Hà Địa, nhân vật Gilgamesh ra đi tìm kiếm cây trường sinh; ở Hy Lạp, Prométhée ăn cắp lửa thiêng, hoặc Héraclès đoạt lấy những trái táo trường sinh. Ngoài ra, cũng có biết bao đề tài tương tự ở Ấn Độ xưa, ....
Tác giả Kinh Thánh biến đổi sâu xa hành động này khi định vị nó vào trong văn mạch thần học duy nhất và đặc thù. Ông biến đổi tham vọng của con người thành nguyên mẫu của tội cũng như tiền lịch sử của Sự Ác. Mặt khác, ông chủ ý mô tả biến cố nội tâm hơn là một biến cố bên ngoài. Bức tranh về cuộc Thử Thách là một tiểu phẩm kiệt tác về sự phân tích tâm lý.
(1) Con rắn:
“Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi loài vật hoang dã, mà Thiên Chúa đã làm ra nó”. Chuyện tích về sự thử thách bắt đầu ngay với câu then chốt gây sửng sốt này.
Như vậy trong tấm thảm kịch sắp diễn ra, người kể chuyện giới thiệu một nhân vật kỳ lạ, một con rắn biết nói, biểu tượng sự Ác, mà truyền thống đã nhận ra ở nơi con vật này là quỷ hay quỷ vương (Kn 2: 24). Ngay lập tức, vị ác thần này bị giảm thiểu đến mức tối đa: kẻ sắp tỏ mình ra là đối thủ của Thiên Chúa không gì khác hơn là một con vật (“trong mọi loài vật nơi hoang dã” mà Cựu Ước chỉ ra để phân biệt với loài gia súc), một tạo vật giữa mọi tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên, chứ không là một hữu thể tối cao, một ác thần như đối thủ của Thiên Chúa tốt lành. Việc giải thích Cựu Ước theo nhị nguyên: cuộc xung đột giữa Thiện và Ác, bị loại bỏ ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh.
Tại sao chọn lựa con rắn? Trước hết, trong hầu hết những chuyện tích thần thoại, cây trường sinh mà các thần linh giữ lấy cho riêng mình để hưởng dùng, chung chung được mãng xà, con rồng hay ác thú, đôi khi quái vật, canh giữ. Truyền thống Gia-vít đã hướng sự chú ý đến cây biết điều thiện điều ác, chính với điều ác mà ông liên kết con rắn. Nhưng thay vì để cho con rắn làm kẻ canh giữ không cho con người tiến gần cây biết thiện ác, thì lại mở lối cho người phụ nữ đến gần và kích động lòng ham muốn của bà ăn trái cây. Con rắn hành xử như một kẻ gian ác. Chính ở nơi nét bút đặc thù này mà chúng ta đánh giá sự tự do của tác giả Kinh Thánh đối với hình tượng ngoại giáo.
Vả lại, nhiều dân tộc thời xưa đã nêu bật một cách nào đó hình tượng của con rắn. Họ liệt con rắn vào số những biểu tượng của sự sống và sự tái sinh: việc rắn thay da theo định kỳ xem ra nó sở hữu những bí quyết đem lại nguồn thanh xuân vĩnh hằng. Vì thế, bộ ba: người phụ nữ - cây - con rắn thuộc vào hình tượng của những việc thờ cúng cầu xin sự phong nhiêu. Khoa ảnh tượng tôn giáo của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên cung cấp nhiều ví dụ về đề tài này. Chúng ta không loại trừ rằng khoa ảnh tượng này đã là nguồn gợi hứng cho tác giả kinh thánh phác họa bức tranh này, nhưng ông đã tách nó ra khỏi ý nghĩa duy nhiên.
Mặt khác, rắn, con vật ở trong hang sâu dưới lòng đất, gợi lên mối giao du thân cận với địa giới, âm phủ, nơi ở của những vong hồn và những quỷ thần đáng sợ. Do đó, con rắn được xem như biết những bí ẩn của việc sinh tử mà địa giới nắm giữ. Cuộc đối thoại của con rắn với người phụ nữ diễn ra theo hướng này: con rắn tự phụ là mình biết những thiên cơ hậu vận hơn cả Thiên Chúa.
Cuối cùng, việc con rắn bị nguyền rủa không phải là không có hậu ý bút chiến. Vào thời truyền thống Gia-vít soạn thảo câu chuyện này, dân chúng vẫn còn tôn thờ trong đền thờ con rắn đồng được gọi Nơ-khút-tan, được đồng hóa nó với con rắn đồng mà ông Mô-sê giương cao trong sa mạc. Phải đợi đến vua Khít-ki-gia, vào thế kỷ thứ tám, mới phá bỏ việc thờ cúng ngẫu tượng này: “Chính vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các bàn thờ và đập tan con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.” (2V 18: 4).
(2) Người phụ nữ:
Con rắn ngỏ lời với người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được được ăn mọi thứ cây trong vườn không?”
Tên cám dỗ bắt chuyện với một mình người phụ nữ, vì bà đã không trực tiếp nghe những lời căn dặn của Thiên Chúa. Ngoài ra, chắc chắn nó nghĩ rằng người phụ nữ này dể bị xiêu lòng trước lời dụ dỗ ngon ngọt của nó hơn người nam.
Mặt khác, đề tài về người phụ nữ đầu tiên phạm tội được gặp thấy ở nơi khác. Người ta gặp lại đề tài này ở Hy Lạp với thần thoại Pandore, trong đó người phụ nữ đầu tiên này mở cái chậu chứa đựng những điều xấu không phải lúc; vì thế, những điều xấu này tràn lan khắp mặt đất, chấm dứt hạnh phúc nguyên thủy của nhân loại.
(3) Lời dụ dỗ dối trá:
Để có thể gieo nghi ngờ vào lòng người phụ nữ, con rắn khôn khéo giả vờ ngây thơ hỏi người phụ nữ: “Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn sao?”. Người phụ nữ đính chính ngay tức khắc: “Chỉ có một cây mà Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, nếu không, sẽ phải chết.”
Lúc đó, tên cám dỗ tìm cách tẩy xoá ý tưởng về Thiên Chúa tốt lành và thiện hảo trong tâm trí của người phụ nữ; nó trình bày Ngài như kẻ ghen tuông và lừa dối, muốn giữ lấy những đặc quyền cho riêng mình: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết thiện ác”.
Với những lời dụ dỗ bùi tai này, người phụ nữ bắt đầu nghi ngờ Thiên Chúa; chính ở nơi ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa mà tội lỗi sắp bén rễ.
(4) Tấn thảm kịch của sự tự do:
Lúc đó, người kể chuyện mô tả cuộc chiến đang diễn ra trong lương tri của người phụ nữ. Ông mô tả nó như cuộc chiến của một con người tự do, có trách nhiệm, hoàn toàn sáng suốt. Vì thế, không phải vì ăn trái cây biết thiện ác mà người nữ - và người nam - đã thủ đắc được sự biện phân thiện ác (như vậy sẽ là một sự nghịch lý). Sự biện phân này (kể cả sự tự do) là một ân huệ của Đấng Sáng Tạo ban cho thụ tạo có lý trí của Ngài. Thiên Chúa đã quá mạo hiểm khi ban sự tự do cho con người.
Vì thế, hành vi cử chỉ của người phụ nữ diễn tả ý muốn được toàn quyền quyết định, một sự tự mãn cao ngạo bất cần Thiên Chúa, nỗi khao khát tự mình quyết định Thiện Ác không cần thông qua lề luật của Thiên Chúa: “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn ngon miệng, nhìn sướng mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn…”
Người phụ nữ tiếp tục cuộc độc thoại nội tâm. Đây thực sự là một trình thuật tinh tế điển hình của sự thử thách, của cơn cám dỗ. Tội lỗi xem ra luôn luôn có sức quyến rũ đối với chúng ta..
(5) Tội lỗi:
“Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở với mình, ông cũng ăn.”
“Việc cùng ăn một trái cây” liên hết hai người thành một cộng đồng cùng chung một trách nhiệm và vận mệnh: “đồng hội đồng thuyền”, “đồng sinh đồng tử”. Đó chính là những đề tài rất nổi tiếng, và hơn cả đề tài, đó chính là những hành vi cúng tế và những nghi thức kết nghĩa huynh đệ trong xã hội.
Thế nên, trong thần thoại cũng như trong thực tế, những hành vi này - dù là những nghi thức kết giao đính ước nên vợ nên chồng, kết nghĩa huynh đệ đồng sinh đồng tử - đều có một điểm chung nhất đó là giới thiệu một tình huống bất khả đảo ngược. Vậy nên, trong những nghi thức kết giao, ai chấp nhận thức ăn mà người khác dâng hiến, dù khác nhau về bản tính hay môi trường, người đó dứt khoát trở nên “có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu” với người này. Theo đó, chúng ta có thể cho rằng chính con rắn (Xa-tan) dâng hiến trái cây, nó buộc chặt con người vào với nó vô phương cứu vãn, bởi vì con người, mà hai ông bà nguyên tổ đại diện, đã chấp nhận quà tặng của nó. Theo cách này, chắc hẳn tác giả của chuyện tích này đã muốn diễn tả con người đồng lõa với tội lỗi. Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người đương thời của tác giả không phải là không biết tính chất nghiêm trọng của dấu chỉ này.
Mặt khác, thật là ý nghĩa biết bao khi truyền thống Gia-vít, vốn ý thức sâu sắc về hậu quả của tội (như phần tiếp theo của tác phẩm này cho thấy điều đó), đã chọn để mô tả tội đầu tiên, một hành vi cử chỉ bên ngoài xem ra vô hại như việc hái và ăn một trái cây, một trái duy nhất, từ cây mà người chủ vườn đã dành riêng cho mình; lẽ ra tác giả đã có thể miêu tả một tội ác tày trời (ví dụ như tội Ca-in giết em mình là A-ben). Vì lẽ, ông đã không muốn chúng ta bị nhầm lẫn về bản chất của tội: tội trước hết là một sự xúc phạm trực tiếp đến Thiên Chúa, tác động đến mối tương giao theo chiều dọc giữa Thiên Chúa và con người.
(6) Họ thấy mình trần truồng:
Tất cả những gì con người đánh mất do tội, người kể chuyện diễn tả một cách gợi hình: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”. Sự trần truồng theo Cựu Ước có nghĩa sự yếu đuối, sự bơ vơ lạc lõng, không nơi nương tựa, bảo vệ và che chở. Vì tội, hai ông bà đã đánh mất sự nương tựa, tức là Thiên Chúa, đã đánh mất những ân phúc tinh thần mà vườn địa đàng là biểu tượng; họ ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Dấu chỉ đầu tiên là xấu hổ vì thấy mình trần truồng, điều này đánh dấu sự đồi trụy trong mối quan hệ phái tính. Vết thương của tội chắc hẳn đã làm xáo trộn đặc biệt trật tự tính dục, và qua đó, tất cả mọi liên hệ của con người.
(7) Tính lịch sử của tội:
Chuyện tích của sách Sáng Thế không có tính lịch sử. Tuy nhiên, sứ điệp mà nó trao gởi cho chúng ta mặc khải cho chúng ta rằng thân phận tội lỗi của con người là một sự kiện không “thuộc về bản tính”, nhưng “thuộc về lịch sử”. Thiên Chúa đã không tạo dựng con người gian ác; Ngài đã tạo dựng nên họ tốt lành và tự do (chuyện tích thứ nhất xác định:“theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”). Thiên Chúa vốn rất mực tốt lành đã không thể tạo ra Sự Ác. Chính sự tự do của con người đã là mầm mống của mọi điều ác.
Tuy nhiên, con người không hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc Sự Ác xâm nhập thế gian, còn có tên cám dỗ, đây là một tình tiết giảm tội. Đó không phải là lý do vì sao đã có sự chuộc tội cho con người, trong khi không có sự chuộc tội cho Sa-tan sao? Đức Ki-tô đã gợi lên tấm thảm kịch nguyên tổ này: “Xa-tan là tên sát nhân ngay từ khởi đầu; nó là tên nói láo và cha của sự dối trá”.
(8) Kinh nghiệm lịch sử:
Chúng ta có thể nghĩ rằng để xây dựng câu chuyện của mình, nhà biên soạn Kinh Thánh đã nhận nguồn cảm hứng từ chính lịch sử Ít-ra-en. Dân Chúa chọn đã được “lấy” từ hoang địa mà đưa vào Đất Hứa “chảy sữa và mật”, cũng như A-đam đã được “lấy” từ đất hoang dã mà đặt vào trong vườn Địa Đàng. Đối với Ít-ra-en, ngoài Đất Hứa ra còn có ân ban Lề Luật; cũng như đối với A-đam, ngoài vườn Địa Đàng ra còn có huấn lệnh của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy ở nơi sách Đệ Nhị Luật cũng một cách nói: “Nếu anh em nghe huấn lệnh của Thiên Chúa, Chúa của anh em, anh em sẽ được sống… Nhưng nếu anh em thay lòng đổi dạ… thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong… Tôi đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa.” (Đnl 30: 15-20).
(9) Những khía cạnh ngôn sứ:
Những khía cạnh ngôn sứ của chuyện tích thì rất nhiều và sâu sắc.
Trong một linh cảm đáng ngạc nhiên, tác giả linh hứng đã định vị tấm bi kịch nguyên thủy vào trong một cuộc chạm trán giữa người phụ nữ với Tên Cám Dỗ, ở giữa lòng thiên nhiên còn nguyên sơ. Tin Mừng trình bày một chạm trán trực diện giữa Đức Giê-su và Xa-tan ở giữa lòng hoang địa. Người phụ nữ đã vấp ngã trong khi Đức Giê-su lại chiến thắng tên Xảo Trá. Rõ ràng, bài trình thuật Sáng Thế này là khúc dạo đầu của bài ca khải hoàn dứt khoát của Chúa Giê-su.
Khi cho nhân vật phụ nữ một vai trò ưu thế, không phải là tác giả vén mở cho chúng ta thoáng thấy một dung mạo nữ giới khác, Đức Ma-ri-a, một tạo vật duy nhất thuộc dòng giống loài người chúng ta, đã hưởng được tình trạng vô tội trước khi nguyên tổ phạm tội, tức là tình trạng “tiền a-đam” như cách nói của các nhà thần học.
Đối lại với tiếng “vâng” của bà tổ E-và với Xa-tan, sẽ là lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a với sứ thần. Bà E-và ở nơi nguyên khởi của tội, Đức Ma-ri-a ở nơi nguyên khởi của Ơn Cứu Chuộc. Con người muốn trở thành Thiên Chúa, trong khi Thiên Chúa sẽ trở thành một phàm nhân, như câu nói bất hủ của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Thiên Chúa làm người để con người trở thành con cái của Thiên Chúa”.
Thêm nữa, làm thế nào sự linh cảm này không làm chúng ta xúc động sâu xa hơn, thấm thía hơn? Bản văn không gợi ra một cách nào đó: đáp lại “việc ăn sinh nên tội” của hai ông bà nguyên tổ là bàn tiệc Tân Ước, ở đó “việc ăn mang lại ơn cứu chuộc”; và đối lại những lời dụ dỗ dối trá của Tên Cám Dỗ: “Nếu ông bà ăn trái này, ông bà sẽ không phải chết” là những lời hứa ban sự sống của Ngôi Lời nhập thể: “Nếu các ngươi ăn bánh này, các ngươi sẽ không chết bao giờ”.
BÀI ĐỌC II (Rm 5:12-19)
Bài đọc II, trích từ thư của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Rô-ma, đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tư tưởng Ki-tô giáo. Chính trên bản văn này mà Giáo Hội đặt nền tảng cho đạo lý của mình về tội nguyên tổ, bằng cách quy chiếu đến chuyện tích của sách Sáng Thế, như thánh Phao-lô đã làm.
Thánh nhân đã đọc lại chuyện tích này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể: chính khởi đi từ Đức Giê-su mà thánh nhân khai triển tư tưởng của mình, sự can thiệp cứu chuộc của Đức Ki-tô hình thành nên cơ sở của tất cả lập luận; sự liên đới của Đức Ki-tô với toàn thể nhân loại tội lỗi (liên đới hữu thể như lời phát biểu của thánh nhân sau này: “chúng ta là thân thể của Đức Ki-tô”) dọi chiếu ánh sáng trên bản văn của sách Sáng Thế. Từ đây, đối lập với triều đại tội lỗi là triều đại ân sủng.
1. Triều đại tội lỗi:
Sau khi đã chứng minh rằng tội lỗi thống trị trên toàn thể nhân loại, thế nên, mọi người bất luận là dân Do Thái hay dân ngoại, đều cần đến ơn cứu chuộc, thánh nhân truy nguyên đến tận gốc của tội bằng cách nêu bật lên sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su).
Thánh nhân xây dựng lập luận của mình theo phép song đối nghịch đảo để nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su). Trong phép song đối nghịch đảo này, tiền đề được phát biểu một cách minh nhiên, nhưng phản đề lại không hiển hiện, ít ra không được đặt ngay liền sau đó, bởi vì các câu 13-14 được chen vào. Tuy nhiên, phản đề này phải được hiểu một cách mặc nhiên theo tiến trình hợp lý của phép song đối nghịch đảo: “qua A-đam đầu tiên, tội lỗi và sự chết đã xâm nhập thế gian như thế nào; qua A-đam thứ hai (Đức Ki-tô) ơn công chính hóa và sự sống đời đời xâm nhập thế gian cũng như thế”.
Sự gián đoạn của phép song đối nghịch đảo này rất có ý nghĩa. Nó nói lên không có cùng chung mức độ giữa việc A-đam vi phạm và sự phục hồi được thực hiện bởi Đức Ki-tô. Đức Ki-tô là nguồn mạch viên mãn của ân sủng trong khi A-đam chỉ là con đường qua đó “tội lỗi đã xâm nhập thế gian” và qua đó “sự chết đã lan tràn tới mọi người”. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương phản không cùng một mức độ này ở nơi những song đối nghịch đảo của 5: 15-17 và 5: 18-19, và lần cuối cùng 5: 20 với những ngôn từ và những chi tiết khác nhau.
Cách diễn tả này đến từ Kn 2: 23-24: “Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian”.
A-đam đã mở ra một lỗ hổng qua đó Sự Ác đã ùa vào gây ra những tàn phá. Sự Ác được trình bày như một quyền năng, hầu như được nhân cách hóa, có trước A-đam.
1.1- Tội lỗi gây nên sự chết:
Tội lỗi cũng được nhân cách hóa, như một sức mạnh thù địch chống lại con người. Sự chết cốt yếu là sự chết tinh thần (cho dù thánh Phao-lô cũng thiết lập mối liên hệ giữa sự chết thể lý và tội lỗi mà sự chết là dấu chỉ).
1.2- Sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội:
Câu phát biểu nổi tiếng khó dịch này gây nên những cuộc tranh luận và những giải thích khác nhau. Những cách giải thích khác nhau do bởi cách hiểu “đại từ quan hệ” của Hy ngữ được đặt sau giới từ chỉ nguyên nhân: “bỏi vì”. Chung quy có hai cách đọc và hiểu đại từ quan hệ này.
Cách đọc thứ nhất hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến A-đam: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì ông, mọi người đều phạm tội”. Cách đọc này đặt mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội của A-đam với toàn thể nhân loại. Cách đọc thứ hai hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến sự chết của câu đi trước theo chức năng văn phạm của câu: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì sự chết này, mọi người đã phạm tội”. Cách đọc này hiểu sự chết như chuẩn y tội phản nghich của A-đam.
Xin nhắc lại rằng Công Đồng Tren-tô đã đặt nền móng cho đạo lý về tội nguyên tổ của mình trên toàn bộ bản văn, chứ không trên một câu. Dù thế nào, thánh Phao-lô đặt sự chết tinh thần của nhân loại dưới ba mối quan hệ: Sự Ác - A-đam - mọi người, những mối quan hệ nhân quả được thêm vào mà không loại trừ nhau.
Thêm nữa, thánh nhân nhấn mạnh điều này trong toàn bộ chương - không một ai “do tự sức riêng của mình” có thể thoát khỏi dòng giống tội lỗi này: nhân tính đã bị thương tổn. Có mối liên hệ hữu thể giữa dòng giống loài người.
1.3- Sự thâm căn cố đế của tội:
Thánh Phao-lô sẽ chứng minh theo cách khác sự thâm căn cố đế của tội. Trước khi có Lề Luật Mô-sê, tội đã có mặt trong thế gian rồi.
Thánh nhân phân biệt ở đây sự vi phạm và tội lỗi. Khi có Lề Luật, việc không tuân thủ Lề Luật được xem là vi phạm; nhưng Lề Luật thực sự chỉ làm lộ ra chân tướng của tội lỗi, bộc lộ tội lỗi ra bên ngoài, vì thế Lề Luật không thể gây nên tội lỗi, bởi vì tội lỗi có trước Lề Luật.
2. Triều đại ân sủng.
Rõ ràng A-đam là tiên trưng phản diện của Đức Giê-su. Chúng ta cảm thấy rằng thánh nhân đã bị đánh động, nếu không muốn nói bị đảo lộn bởi viễn cảnh phi thường này: Đức Ki-tô tự đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi để phá vỡ mối dây ràng buộc nhân loại với sự ác và giúp con người có khả năng tìm gặp lại sự sống thần linh. Thánh Phao-lô phóng chiếu vào trong quá khứ một sự liên đới đầu tiên thuộc loại suy trên dung mạo của A-đam. Nhưng sự liên đới thứ hai thì cao vời vô tận so với sự liên đới đầu tiên. Nguồn ân sủng sung mãn trổi vượt biết mấy trên muôn vàn tội lỗi.
Chính lúc đó thánh nhân mới có thể lấy lại sự so sánh còn bỏ ngỏ: “Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5:15b). Đó là điểm nhắm mà thánh Phao-lô muốn đạt đến: triều đại tội lỗi đến hồi kết thúc, trong khi triều đại ân sủng được thiết lập muôn đời bền vững. Đức Ki-tô, vị lãnh tụ mới của con cái loài người, hướng dẫn loài người đạt đến ơn công chính hóa và sự sống.
TIN MỪNG (Mt 4:1-4)
Việc Chúa Giê-su rút vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Dù có nhiều chi tiết khác nhau, tuy nhiên cả ba đều đặt biến cố này ngay sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy Giả. Cả ba Tin Mừng đều nhấn mạnh rằng việc Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ là dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
1. Gốc tích câu chuyện:
Không ai được chứng kiến tận mắt biến cố này, vì thế phải giả sử rằng nguồn cung cấp duy nhất của mọi dữ kiện này không ai khác hơn ngoài Đức Giê-su. Đây là cuộc chuyện trò riêng tư giữa Thầy và trò. Vì thế, chúng ta đến câu chuyện này với lòng cung kính tuyệt đối, vì qua đó Đức Giê-su đã thổ lộ những sâu kín trong lòng của Ngài. Ngài đã cho loài người biết kinh nghiệm của chính Ngài. Đây là câu chuyện thánh hơn hết vì qua đó Đức Giê-su muốn nói với mỗi người rằng Ngài có thể giúp đỡ chúng ta trong cơn cám dỗ. Từ những cuộc chiến đấu của chính Ngài, Ngài đã cho chúng ta thấy Ngài có thể giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu của chính chúng ta. Vào cuối đời, Đức Giê-su đã có thể nói với các môn đệ: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan” (Lc 22: 28). Vả lại, Đức Giê-su ám chỉ rõ ràng đến sự chiến thắng của Ngài trên quyền lực quỷ vương trong dụ ngôn về một kẻ mạnh bị trói. Đám đông hỏi Ngài nhờ ai mà Ngài xua trừ ma quỷ, Đức Giê-su trả lời: “Làm sao người ta có thể vào nhà một kẻ mạnh và cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó?” (Mt 12:29).
2. Hoang địa:
Hoang địa nơi Đức Giê-su rút lui là sa mạc Giu-đê, trải dài giữa Giê-ru-sa-lem và Biển Chết. Dải đất hoang vu này toàn cát vàng, đá vôi bể vụn và đá sỏi rải rác. Đó là nơi Đức Giê-su thấy mình trơ trọi hơn bất cứ nơi nào khác trong toàn xứ Palestine. Những chước cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra trong suốt cuộc rút lui vào hoang địa này, như Mác-cô và Lu-ca gợi ra, đoạn đạt đến cực điểm, vì sự yếu nhược thể lý của Đức Giê-su, do bởi ăn chay lâu dài.
Đức Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng, cầu nguyện và chay tịnh. Hơn nữa, khi người ta ăn chay, có nghĩa người ta khiêm tốn nhận ra mình là tội nhân. Việc Đức Giê-su chay tịnh được định vị vào trong tiến trình nối tiếp sau việc Ngài chịu phép rửa, như vậy Ngài cũng muốn được liên đới với toàn thể nhân loại tội lỗi.
Đồng thời, Đức Giê-su cũng bày tỏ ước nguyện của mình là thu tóm ở nơi bản thân mình vận mệnh của dân Ngài. Như dân Ngài, Ngài đã kinh qua cuộc lưu đày ở Ai Cập khi còn ấu thơ; bây giờ, Ngài trải qua kinh nghiệm ở hoang địa bốn mươi đêm ngày, con số này nhắc nhở bốn mươi năm dân Do Thái đã trải qua trong hoang địa, cũng như bốn mươi đêm ngày ông Mô-sê chuẩn bị để đón nhận những lời Giao Ước trên núi Xi-nai.
Chính ông Mô-sê mà thánh ký đặc biệt nghĩ đến, như được bày tỏ trong câu chuyện cám dỗ này. Như ông Mô-sê xuống núi Xi-nai để công bố Giao Ước, Giao Ước này thiết lập dân Ít-ra-en thành dân Chúa chọn; cũng vậy, Đức Giê-su sẽ rời bỏ hoang địa để thiết lập một Giao Ước Mới và khai sinh một dân Ít-ra-en mới. Song song với bốn mươi ngày trong hoang địa, chúng ta cũng sẽ gặp thấy cùng khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Đức Giê-su : “Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1: 3).
3. Ba chước cám dỗ :
Ba chước cám dỗ diễn tiến theo trình tự của ba chước cám dỗ chính yếu mà dân Do Thái đã trải qua trong hoang địa : bánh man-na (x. Xh 16 : 4), điềm thiêng dấu lạ (x. Xh 17) và thờ ngẫu tượng : bò vàng (x. Xh 32). Nhưng trong khi dân Ít-ra-en thất bại trước những chước cám dỗ này, thì Đức Giê-su lại chiến thắng vẻ vang.
Mặt khác, ba chước cám dỗ này đều có một nét chung : cả ba đều được sắp xếp nhằm trình bày những quan niệm sai lầm về Đấng Mê-si-a mà Đức Giê-su sẽ gặp phải trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong hoang địa, Ngài có đủ sáng suốt và sức mạnh cần thiết để chế ngự chúng.
3.1- Đấng Mê-si-a trần thế :
Sau khi đã ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su đói. Quỷ cám dỗ Ngài biến những hòn đá thành bánh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi !”. Quỷ muốn thử thách quyền năng của Đấng đã nhận tước hiệu này vào lúc Ngài chịu phép rửa. Cũng một cách như vậy, những kẻ thù Ngài chế nhạo và thách đố Ngài ở dưới chân thập giá: “Hãy cứu lấy mình đi, nếu mày là Con Thiên Chúa” (Mt 27:40). Hai chước cám dỗ này song song với nhau: lạm dụng quyền Con Thiên Chúa để mưu cầu tư lợi. Đức Giê-su đã đẩy lùi cơn cám dỗ này: Ngài sẽ chỉ sử dụng quyền năng để phục vụ tha nhân.
Xưa kia dân Do Thái trong khi phải đói trong hoang địa đã nhận được bánh man-na; Mô-sê cảnh giác họ đề phòng mọi tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh…” (Đnl 8: 3). Đức Giê-su đáp lại Xa-tan cũng bằng những lời này. Cái đói mà Ngài đến để làm no thỏa là cơn đói Lời Chúa. Trong câu trả lời của Ngài, Đức Giê-su không chỉ không để lộ chân tính của Ngài, nhưng tự đồng hoá mình với nhân loại: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Một ngày kia, trong khi Đức Giê-su đói, các môn đệ của Ngài mang đến cho Ngài lương thực, Ngài trả lời: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy…” (Ga 4: 32-33).
3.2- Đấng Mê-si-a uy quyền:
“Sau đó, ma quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: ‘Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống coi’.”
Quỷ đề nghị với Đức Giê-su thực hiện một kỳ công ngoạn mục, nhờ đó Ngài có được một uy thế lớn lao đối với dân chúng. Với sự khôn khéo xảo quyệt, Xa-tan trích dẫn Thánh Vịnh 91, 11-12,15 theo đó người công chính hoàn hảo, được Thiên Chúa phù trì che chở và truyền cho thiên sứ tay đỡ tay nâng cho khỏi bị vấp chân vào đá.
Xưa kia, trong hoang địa, chính dân Do Thái cũng đã thách thức Thiên Chúa: nếu Ngài không ban cho họ nước uống ngay tức khắc, thì họ sẽ nghi ngờ Ngài (x. Xh 17: 1-7), dù Thiên Chúa đã ban cho họ bánh kỳ diệu. Nhờ quyền năng Thiên Chúa, Mô-sê đã ban cho họ nước phun ra từ tảng đá, tuy nhiên ông trách cứ nghiêm khắc dân cứng đầu cứng cổ này: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16).
Đức Giê-su đã trả lời cho sự thách đố của Xa-tan cũng bằng chính lời của Mô-sê : “Ngươi chớ thách thức Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Đức Giê-su bác bỏ lời đề nghị của Xa-tan: Ngài không đòi hỏi Thiên Chúa độ trì che chở Ngài đến độ đặt Ngài ra ngoài thân phận thường tình của con người. Sau này, Đức Giê-su cũng đã nhiều lần bị thách thức theo chiều hướng này: những người Biệt Phái đòi hỏi Ngài một dấu lạ ngoạn mục để chứng thực Ngài là Đấng Mê-si-a. Nhưng Ngài sẽ không bao giờ ban cho họ.
3.3- Đấng Mê-si-a thống trị thế giới :
Chước cám dỗ thứ ba được định vị trong môi trường khải huyền: một ngọn núi tưởng tượng, Sa-tan chủ tể của mọi vương quốc… Chắc chắn, những hình ảnh nhấn mạnh sức mạnh của cuộc chiến nội tâm mà Đức Giê-su phải đương đầu: chước cám dỗ về một Đấng Mê-si-a thống trị thế giới.
Đấng Mê-si-a mà dân Do Thái chờ đợi mặc lấy nhiều khía cạnh; nhưng phần đông hy vọng một Đấng Mê-si-a khải hoàn và chiến thắng, Đấng sẽ khôi phục lại vương quốc Đa-vít và, qua đó, sẽ cho phép Thiên Chúa thống trị toàn thế giới. Một chương trình tuyệt vời, nhưng không một chút nào là chương trình của Đức Giê-su. Ngài đã đến với tư cách là “Người Tôi Tớ” và “Con Người”, đó là hai tước hiệu Mê-si-a mà Ngài quy chiếu về mình. Khi đám đông phấn chấn muốn tôn Ngài lên làm vua, Ngài liền lánh mặt (x. Ga 6:15). Và ở Xê-da-rê khi thánh Phê-rô muốn chống đối viễn cảnh của Đấng Mê-si-a đau khổ, Đức Giê-su mạnh mẽ đẩy lùi cơn cám dỗ này: “Xa-tan, hãy lui lại đằng sau Thầy!” (Mt 16:23). Đó cũng là mệnh lệnh mà Ngài ra lệnh cho Tên Cám Dỗ trong hoang địa : “Xa-tan kia, xéo đi !”. Trong cuộc đời của Ngài, chưa bao giờ xảy ra một cuộc chiến đấu với sự cám dỗ nào dữ dội như cuộc chiến đấu tại vườn Cây Dầu, khi quỷ tìm cách cám dỗ Ngài từ chối con đường thập giá.
Thánh ký đồng hoá quyền thống trị thế giới với sự khuất phục Xa-tan. Sau này, Đức Giê-su vạch mặt chỉ tên Xa-tan là “thủ lãnh thế gian này” (x. Ga 12: 31; 14: 30; 16: 11; 1 Ga 3:8). Thánh Phao-lô cũng đồng hoá những quyền thống trị thế giới với những thế lực của Sự Ác, vì vào lúc đó, quyền này là quyền của thế giới ngoại giáo và quyền thờ lạy ngẫu tượng (x. Ep 6:12).
Xưa kia, ngay cả trước khi vào Đất Hứa, dân Do Thái để cho mình bị cám dỗ bởi việc thờ lạy tà thần (thờ bò vàng), Mô-sê đã mạnh mẽ xác quyết: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Đức Giê-su cũng đáp trả bằng những lời xác quyết mạnh mẽ như thế : “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Lúc đó, một chi tiết thật là có ý nghĩa: “Lập tức có thiên sứ đến gần hầu hạ Người”, nghĩa là, Đức Giê-su đích thật là Đấng Công Chính hoàn hảo mà Thánh vịnh 91 gợi lên.
Đức Giê-su đã không chọn những của cải trần thế, nhưng sự nghèo khó; Ngài đã không chọn uy thế, nhưng sự khiêm hạ; Ngài đã không chọn thờ ngẫu tượng của quyền thống trị thế giới: Ngài thích bị kết án một cách bất công là “vua dân Do Thái” hơn.
Tác giả bài viết: Lm. Inhaxiô Hồ Thông
https://gphaiphong.org/hoc-hoi-loi-chua/chu-giai-loi-chua-chua-nhat-i-mua-chay-nam-a-10490.html