Ý Nghĩa Ngày Chúa Nhật Phục Sinh & Nguồn Gốc và Ý Nghĩa của Tam Nhật Vượt Qua & Yếu tố có bài giảng hay
Ngày đăng: 2:09 PM - 07/04/2023





Lời Nguyện Tín Hữu CN Phục Sinh A
Lời Nguyện Cho Mọi Người
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại và bừng sáng trên thế giới như mặt trời chính ngọ. Ước gì ánh sáng phục sinh của Ngài luôn hướng dẫn đời sống đức tin của người kitô hữu. Trong niềm hân hoan mừng Con Chúa đã sống lại khải hoàn, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1- Từ hai mươi thế kỷ nay / Hội Thánh không ngừng công bố một Tin Mừng duy nhất cho muôn dân / đó là Tin Mừng Con Chúa đã phục sinh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lời rao giảng của Hội Thánh / được nhiều người thành tâm đón nhận.
2- Chỉ một mình Đức Kitô phục sinh có quyền năng đổi mới / và hòa giải mọi tâm hồn / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa thương xót nhân loại đang đau khổ vì hận thù chia rẽ / và canh tân lòng trí con người hôm nay.
3- Nhờ Đức Kitô phục sinh / Chúa mở lối cho nhân loại vào cõi sống muôn đời / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / chỉ vẽ cho các kitô hữu biết cách xây dựng quê hương trần thế / làm sao cho những cố gắng đó / cũng giúp họ đạt tới quê trời vĩnh phúc.
4- Chính Đức Kitô phục sinh đã tập họp chúng ta trong thánh lễ này / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / lấy lời chân lý mà cải hóa / và giúp cộng đoàn giáo xứ chúng ta sống một đời thánh thiện / để mọi việc chúng ta làm đều đẹp lòng Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, Đức Giêsu Kitô Con Chúa đã trải qua bao đau thương và chịu khổ hình Thập giá rồi mới bước vào vinh quang thiên quốc. Xin cho tất cả chúng con được chia sẻ đau thương, được chết với Người, để cùng được phục sinh vinh hiển với Người là Đấng hằng sống và hiển trị…
Lời Nguyện Tín Hữu – Manna Bảo Lộc
Chủ Tế: Anh chị em thân mến,
Biến cố Phục Sinh, mừng Chúa Giêsu chiến thắng sự dữ và sự chết chính là niềm vui lớn nhất của người Kitô hữu. Nếu như Chúa không sống lại thì tất cả nền tảng đức tin của chúng ta hoàn toàn sụp đổ. Trong niềm hân hoan và long trọng mừng Đại lễ Phục Sinh, chúng ta hãy cùng dâng lời cầu nguyện:
- Tin Mừng Phục Sinh chính là trung tâm đức tin của người Kitô hữu. Xin Thần Khí Chúa soi sáng, đồng hành cùng với mọi thành phần trong Hội Thánh, để thôi thúc lòng hăng say, nhiệt thành sống chứng nhân cho Tin Mừng, nhất là mọi người cùng hiệp thông với nhau trong tình bác ái huynh đệ.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
- Hội Thánh được sai đi làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Xin cho các Giáo lý viên cùng những ai đang làm công tác truyền giáo, luôn không ngừng tìm tòi học hỏi kiến thức mới mẻ, để thêm hiểu biết và khôn ngoan trong việc giảng dạy, cũng như truyền đạt Tin Mừng đến cho các em thiếu nhi và những người chưa biết Chúa.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
- Bà Maria Ma-đa-lê-na đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối. Xin cho những ai khô khan biếng nhác việc đạo, biết nhìn vào gương sáng của những người sốt sắng, để sớm thức tỉnh nhận ra tiếng Chúa đang gọi mình, và mau mắn trở về lãnh nhận phúc lành của Chúa Phục Sinh.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
- Chúa đã chiến thắng sự dữ, sự chết và sống lại hiển vinh. Xin biến đổi cuộc sống của mỗi người chúng ta, biết can đảm diệt trừ những cái xấu nơi bản thân, và vươn lên tìm kiếm những sự tốt lành thánh thiện, để mọi người nhận ra hình ảnh Chúa Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong chúng ta.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Chủ Tế: Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin đón nhận những ý nguyện chân thành mà cộng đoàn chúng con vừa dâng lên. Và xin ban cho mỗi người chúng con luôn có niềm tin- cậy- mến vững vàng, để mạnh dạn làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh mọi ngày trong đời. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Video Ý nghĩa thứ bảy Tuần Thánh:
https://www.youtube.com/watch?v=887LIEyac1Q
https://www.youtube.com/watch?v=fiR4ctdRNgo

Giáo lý Hội Thánh Công giáo nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Tam Nhật Thánh: “Bắt đầu bằng Tam Nhật Thánh như nguồn ánh sáng, thời đại mới của sự phục sinh đổ đầy cả năm phụng vụ bằng sự rực rỡ của ánh sáng. Dần dần, về phương diện khác của nguồn gốc này, năm được tôn lên bằng phụng vụ. Đây thực sự là “năm của ân sủng Thiên Chúa”. Sự cứu độ hoạt động trong khung thời gian, nhưng vì sự viên mãn trong cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu và sự tràn đầy Thánh Thần, đỉnh cao của lịch sử được tiên báo là “sự nếm trước” và Vương quốc của Thiên Chúa đến trong thời đại của chúng ta” (GLHTCG, số 1168) .
TAM NHẬT VƯỢT QUA
1. Tổng quát
Từ ‘ Vượt Qua ’ trong tiếng Hípri là Pascha (pèsah) , bắt nguồn từ tiếng Aram là pashâ. Người ta còn bàn cãi về nguồn gốc của danh từ này. Có người gán cho nó một căn ngữ từ tiếng Assyria, nhưng chưa có giả thuyết nào có giá trị quyết định. Thánh Kinh cho từ pèsah đồng nghĩa với động từ pasah , có nghĩa là đi khập khiễng hoặc nhảy múa theo nghi thức quanh lễ vật hy tế (x 1V 18,21.26) hoặc theo nghĩa bóng là nhảy qua, bỏ qua, tha thứ. Lễ vượt qua là việc đi ngang qua của Thiên Chúa, Người lướt qua trên những nhà người Israel, đang khi đó Người lại trừng phạt những nhà người Ai Cập (x Xh 12,13.23.27; Is 31,5).
Trải qua thời gian từ “Vượt Qua” đối với Đức Giêsu và Kitô giáo mang nhiều nghĩa mới như: xây lại đền thờ có ý về việc Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ tạm thời và loan báo đền thờ vĩnh cửu là thân thể phục sinh của Người (x Ga 2,13-23); Vượt Qua của Chiên Mới: Đức Giêsu là chiên vượt qua, thiết lập bữa tiệc Vượt Qua mới và thực hiện cuộc Xuất Hành riêng của Người, vượt qua thế gian về cùng Cha (Ga 13,1). Vượt qua tức là Tiệc Thánh Thể: khi ăn thịt và uống máu mình, Đức Giêsu đã diễn tả cái chết của Người như là hy lễ Vượt Qua mà Người là Chiên Mới (x Mc 14,22-24). Sau cùng vượt qua còn chỉ bữa tiệc cánh chung: bữa tiệc trên trời, bữa tiệc mà mọi người đang trên đường tới dự (x Kh 5,6-12; 12,1).
b. Nguồn gốc
Thời Giáo hội sơ khai, chỉ có lễ Phục Sinh. Trong giờ kinh nguyện canh thức được kéo dài suốt đêm thứ Năm Thánh cho đến rạng sáng lễ Phục Sinh, các Kitô hữu thời sơ khai cử hành mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô tử nạn và Phục sinh như một đại lễ. Dựa vào lời của một kitô hữu Syria thế kỷ thứ III đã viết: “ Vào ngày thứ Sáu và ngày Sabat tất cả hãy ăn chay và không được nếm một thứ gì. Anh em cùng nhau đến và vọng canh thức suốt đêm bằng việc đọc kinh dâng lời khẩn nguyện, đọc sách các Tiên Tri, Tin Mừng và hát Thánh Vịnh… cho đến giờ thứ ba ban đêm sau ngày Sabat; đoạn chấm dứt chay tịnh. Kế tiếp anh em hãy dâng các lễ vật; sau đó anh em hãy ăn uống và reo hò, vui mừng và hớn hở vì thực Đức Kitô, sự Phục sinh của chúng ta, đã sống lại. Đây mãi mãi là luật cho anh em cho đến tận thế”. (X. The litury and Time , p 35-36).
Đối với các Kitô hữu thời sơ khai, đó là đêm có rất nhiều ý nghĩa. Các tác giả sách Tin Mừng kể cho chúng ta biết việc Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và sống lại xảy ra trong bối cảnh lễ Vượt Qua, là cử hành quan trọng nhất trong niên lịch của người Israel. Vượt Qua đánh dấu đêm sứ thần Thiên Chúa sát hại các con đầu lòng của người Ai cập, giải thoát dân Israel khỏi kiếp nô lệ. Nhưng theo truyền thống Israel, ngày lễ Vuợt Qua có một lịch sử xa xưa hơn nhiều. Vào ngày này, Thiên Chúa đã tác tạo Adam. Vào ngày này, Thiên Chúa đã gọi Abraham. Vào ngày này, sứ thần của Chúa đã dừng tay Abraham khi ông định sát tế Isaac. Vì thế, vào dịp lễ Vượt Qua, dân Do thái nhìn lại toàn bộ lịch sử của họ, nhớ lại tình thương đặc biệt Thiên Chúa dành cho họ ngay từ buổi bình minh của tạo dựng (X. Điển ngữ Thần học Thánh Kinh tập IV , Bản dịch Hviện Đà lạt Pio X, 1973, trang 445-448).
Ngày thánh thiêng nhất đối với người Do thái đã trở thành ngày thánh thiêng nhất đối với người Kitô hữu. Cũng vậy, trong đêm dài canh thức, các Kitô hữu nhìn lại lịch sử thánh và nhận ra Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi Đức Kitô trỗi dậy từ trong kẻ chết. Thánh Phaolô đã viết: “Chiên lễ Vượt Qua của chúng ta là Đức Kitô, đã chịu hiến tế” (1 Cr 5,7).
Sự gia tăng ý thức về tính lịch sử của các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu đã dẫn đến sự hình thành Tam nhật Vượt Qua, rồi đến Tuần Thánh và cuối cùng là Mùa Chay. Truyền thống này bắt đầu vào thế kỷ IV, thời Thánh Ambrôsiô (ở Milano nước Ý) và Thánh Augustinô (ở Hippone, Bắc Phi), Tam Nhật Thánh được cử hành vào 3 ngày. Lý do cử hành trong “ba ngày” là để làm đúng theo công thức “ba ngày” được nhiều câu Sách Thánh nói tới, như Hs 6,2; Gn 2,1 và Mt 12,40). Các Kitô hữu kính nhớ cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu theo đúng thời gian, bước theo Người từ lúc Người tiến vào Giêrusalem, khi bị bắt, bị đóng đinh cho đến khi Người phục sinh như Tin Mừng đã thuật lại.
Cũng vào cuối thế kỷ này, thời thánh Augustinô, Bí tích Thánh tẩy cho người lớn là nét trọng tâm của Tam Nhật. Khoảng năm 1951-1955, Đức Thánh cha Piô XII đã phục hồi lại Tam Nhật thánh, cho phép cử hành phụng vụ thứ Năm thánh và Canh thức chiều tối, và khuyến khích việc Rửa tội cho người lớn vào đêm Canh thức Phục sinh. Những canh tân này nhấn mạnh đến sự tham dự của dân chúng và trở về sự thực hành thời Giáo Hội sơ khai.
c. Ý nghĩa
Tam Nhật Vượt Qua thường được gọi là “thánh” vì chúng khiến cho chúng ta sống trở lại biến cố chính của ơn cứu độ; thật thế chúng dẫn đưa chúng ta vào trong nhân tố của lòng tin Kitô: là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Đó là những ngày mà chúng ta có thể coi như một ngày duy nhất, vì chúng là trọng tâm của toàn năm phụng vụ cũng như của đời sống Giáo Hội. Đây là thời điểm kết thúc con đường Mùa Chay để chúng ta chuẩn bị bước vào chính bầu khí mà Chúa Giêsu đã sống khi xưa tại Giêrusalem. Chúng ta muốn khơi dậy ký ức sống động về các khổ đau mà Đức Giêsu đã chịu vì chúng ta và chuẩn bị cử hành Chúa Nhật tới đây với niềm vui lễ Vượt Qua đích thực, mà Máu Chúa Kitô đã bao phủ bằng vinh quang. Đó là Lễ Vượt Qua mà trong đó Giáo Hội cử hành Lễ là nguồn gốc của mọi thánh lễ khác như được khẳng định trong Kinh Tiền Tụng ngày lễ Phục Sinh theo nghi thức thánh Ambrôsiô.
Mầu nhiệm vượt qua này là trung tâm điểm của các việc cử hành trong Năm phụng vụ. Công đồng chung Vaticanô II đã nhấn mạnh nhiều tới điều này trong Hiến chế về phụng vụ ở các số 5. 6. 61 và 102. Và “Văn Kiện Những Quy Luật Tổng Quát Năm Phụng Vụ” nói một cách rõ ràng rằng : “Chúa Kitô đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo, nhất là nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Người. Chính Tam nhật Vượt qua, nhằm tưởng niệm cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa, sáng chói lên như tột đỉnh của cả Năm phụng vụ”. (x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma , số 18.19 )
Như vậy cử hành mầu nhiệm này là cử hành công cuộc cứu chuộc chúng ta và toàn thể nhân loại. Do vậy toàn thể nội dung của tuần thánh nhằm làm nổi bật và làm sáng tỏ mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Kitô.
Sau thời gian cử hành Mùa Chay thánh, trong đó Giáo hội hướng về Đại lễ Phục sinh bằng việc chuẩn bị cho các dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể trong đêm Vọng Phục sinh; đồng thời dọn lòng cho con cái để mừng Đại Lễ này với các việc đọc Lời Chúa, tham dự phụng vụ, cầu nguyện, ăn chay hãm mình, canh tân trở lại, sống bác ái và làm việc bố thí.
Vì vậy, hiểu rõ ý nghĩa Tuần thánh và Tam Nhật Thánh là một điều quan trọng. Công đồng Vaticanô II cũng đã lưu ý tới điều này trong Hiến chế về phụng vụ Thánh Công đồng viết như sau : “Mỗi năm một lần, Giáo Hội còn cử hành hết sức trọng thể vào dịp lễ Phục sinh sự sống lại cùng với cuộc Thương khó của Người” (PV, 102). Chính vì thế, Tuần Thánh khởi sự bằng cuộc rước lá trước thánh lễ, nhằm gợi lại việc Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia, như sách Giacaria đoạn 9,9-10 đã tiên báo, Người đã muốn làm như thế trước khi chịu nạn, đã chiếu rọi vào cuộc khổ nạn một ánh sáng báo trước cuộc toàn thắng của Người. Khi lặp lại những tiếng hoan hô của dân Do Thái ngày xưa, cộng đoàn Kitô hữu tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô. Theo sau cây thập giá và linh mục, dân Thiên Chúa long trọng tiến vào nhà thờ, nơi họ sẽ dâng lại lễ tế giao hòa với Thiên Chúa. Trong đi rước, họ nói lên niềm hy vọng vì biết rằng khi lên trời, Chúa Giêsu đã mở cửa thành Giêrusalem thiên quốc cho họ, và giờ đây họ đang tiến về nơi đó.
Như vậy, Tuần Thánh bắt đầu bằng Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá nhằm tung hô Chúa Giêsu khải hoàn, tiếp đó là mời gọi ta theo Người trên con đường khổ nhục. Và Phụng vụ đêm Phục Sinh sẽ ca tụng Chúa Giêsu Kitô đã tự hạ đến cùng để bước vào vinh quang, đã sống lại để chiến thắng thần chết. Chúng ta phải được ánh sáng của Chúa Kitô thu hút mới có thể theo Người trong cuộc khổ nạn mà không chùn bước. Chúng ta phải thông hiệp với thập giá của Người mới được chia sẻ sự sống của Người. Đó là tất cả ý nghĩa của Tuần Thánh gồm tóm lại trong hai hướng đi đó.
2. Thứ Năm Tuần Thánh
a. Thánh Lễ Làm Phép Dầu
Nguồn gốc
Dầu tượng trưng cho sự phong phú và chúc lành của Thiên Chúa. Dầu cũng là dấu hiệu của sự hân hoan, vui mừng. Đức Kitô, Đấng được xức Dầu, trở thành Tư Tế, thành Tiên Tri và thành Vướng Đế của Tân ước. Y tưởng này bắt nguồn từ Cựu ước. Thời Cựu ước, người ta quen dùng nghi thức xức dầu để tấn phong các vị tư tế, tiên tri và vua.
Dầu đem lại sự hân hoan tươi tắn, đem lại sức mạnh và làm cho tâm hồn trở nên thơm ngoan dịu dàng trước mắt. Chính vì thế, Chúa Kinh Thánh có 3 hình ảnh khác về ý nghĩa của dầu: Hình ảnh Nước Đại Hồng Thuỷ tẩy sạch trần gian, rồi tiếp đó là cành lá của cây Ôliu do chim câu tha về. Hình ảnh Aharon được tắm rửa, thanh tẩy trước khi được xức dầu. Hình ảnh Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Sau đó, được xức dầu tấn phong nhờ Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu.
Ý nghĩa
Việc làm phép dầu được đưa vào thánh lễ từ sau cuộc canh tân 1955. Trong thánh lễ này Đức Giám mục sẽ làm phép Dầu Bệnh nhân, Dầu Dự Tòng và thánh hiến dầu thánh, sau đó phân phát đến các giáo hạt và các giáo xứ. Điều này có ý nói rằng Dầu từ Nhà thờ Chánh Tòa, là Nhà thờ của Đức Giám Mục Giáo phận chia đi tới các nẻo đường, các vùng trong giáo phận. Và con đường mà Dầu từ trung tâm là Nhà thờ Chánh Tòa được phân chia đi các nhánh đó sẽ được minh họa bằng một từ gọi là Con Đường Dầu. Con Đường Dầu này nói lên vai trò trung tâm của Đức Giám Mục và nói lên sự liên kết đằm thắm giữa ngài các Linh mục trong Giáo phận.
Thông thường, thánh lễ này được tổ chức vào sáng ngày thứ Năm Tuần Thánh. Do đó, thánh lễ Dầu là thời điểm để quy tụ các linh mục bên cạnh Đấng bản quyền của mình để hiệp dâng thánh lễ. Đồng thời, dân chúng cũng được mời gọi tham dự đông đủ vào nghi lễ quan trọng này. Trong thánh lễ, các linh mục lặp lại những lời cam kết của họ khi được thụ phong linh mục vì tình yêu Đức Kitô và tâm tình phục vụ Giáo hội.
b. Lễ tưởng niệm Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu
Nguồn gốc
Mỗi năm, dân Do thái ăn lễ Vượt Qua để tưởng niệm việc họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi cảnh áp bức của người Aicập và Thiên Chúa đã ký kết giao ước với họ. Chúa Giêsu Kitô đã mở đầu cuộc Thương Khó khi cùng với các môn đệ dùng bữa tiệc Vượt Qua đó. Từ giờ phút này, Đức Kitô sẽ thực sự dấn thân vào cuộc thương khó tử nạn. Ngài đã khởi đầu bằng một bữa tiệc Vượt Qua cổ truyền để chấm dứt Lễ Vượt qua của Cựu Ước, đồng thời mở đầu cho lễ Vượt Qua của Tân Ước bằng chính máu thịt Ngài. Cuộc hiến tế đẫm máu trên đồi Canvê giờ đây được tiên báo bằng việc lập Bí tích Thánh Thể. Như vậy, Ngài đã muốn cho bữa tiệc này trở thành bữa tiệc của giao ước mới, giao ước Người lập khi đổ máu hy sinh trên thập giá. Nhiệm tích này sẽ tồn tại mãi mãi như một kỷ niệm và là một lễ hy sinh mỗi khi được tái hiện trên bàn thờ. Vì thế, khi trao cho các môn đệ tấm bánh và chén rượu, là đồ ăn thức uống đã trở thành Mình và Máu của Ngài.
Thứ Năm Thánh bắt đầu Tam Nhật Vượt Qua. Ban đầu, Tam Nhật chỉ gồm Thứ Sáu Thánh và Thứ Bảy Thánh (theo cách tính của người Do Thái là ba ngày). Sang thế kỷ 4 Thế kỷ IV, thời Thánh Augustinô ở Bắc Phi, vì Giáo Hội muốn sống từng giờ với Đức Giêsu trong cuộc vượt qua của Ngài nên đã lập ra nghi lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh. Vì ý muốn đó cho nên đây là ngày duy nhất buộc cử hành đúng vào giờ bữa ăn tối. Trước đó, Thứ Năm Thánh có tên là thứ năm Lễ Tiệc Ly. Ngày này tưởng niệm bữa tiệc ly của Chúa và kỷ niệm Chúa lập bí tích Thánh Thể. Và thứ năm này cũng có tên khác là thứ năm của Giới Răn Mới dựa theo Ga 13,34. Trong nghi lễ thứ năm có nghi thức rửa chân, để nhớ mãi giới luật tình yêu Chúa đã dạy trong đêm tiệc ly này. Nguyên thủy Thứ Năm Thánh chỉ là ngày chuẩn bị lễ mừng mầu nhiệm Vượt Qua. Vào ngày này, các hối nhân được xá giải và tái nhập vào cộng đoàn để họ được tham dự vào lễ Vượt Qua. Từ hôm nay, dầu thánh cũ bị hủy bỏ, các nhà thờ sẽ sử dụng dầu thánh mới để cử hành bí tích Thánh Thể và Thêm Sức vào đêm Phục Sinh.
Truyền thống cử hành nghi thức Lễ Tiệc Ly tại Giêrusalem, là địa điểm và thời điểm tiến hành bữa tiệc ly của Chúa theo tương truyền. Về sau cả Giáo Hội đã áp dụng nghi thức Thứ Năm Thánh tương tự truyền thống ở Giêrusalem. Tập tục này có từ thế kỷ IX.
Ý nghĩa
Thánh Lễ hôm nay bắt đầu cho Tam Nhật Vượt Qua. Trong Thánh Lễ này, chúng ta tưởng niệm lại 3 ý nghĩa chính sau đây: Tái diễn lại bữa tiệc của Chúa Giêsu với các môn đệ. Đây là thời điểm Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể và chức Linh Mục Thượng Phẩm để qua những con người này Ngài trực tiếp hiện diện với nhân loại cho đến ngày tận thế. Hôm nay Giáo Hội cũng kỷ niệm lại với những lời trăn trối tâm huyết cuối cùng mà Ngài đã dành cho các môn đệ đó là việc Ngài ban giới luật yêu thương được cụ thể hóa bằng việc rửa chân cho các Tông đồ. Ba sự việc này diễn ra trong thời gian sau cùng mà Đức Giêsu còn ở giữa các môn đệ. Như vậy, chiều hôm nay, Giáo Hội sống lại những giây phút cao quí nhất, tuyệt vời nhất của tình yêu nơi Đức Kitô, một tình yêu không thể đo lường hay sánh ví.
3. Thứ Sáu Tuần Thánh
a. Nguồn gốc
Việc cử hành phụng vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại Giêrusalem được ghi nhận đầu tiên vào thế kỷ IV do sử gia Esgerie tường thuật lại về việc cầu nguyện và suy niệm về cuộc Thương khó Chúa trong suốt lộ trình từ Nhà Tiệc Ly đến chân đồi Gôlgôtha. Trên lộ trình này, dân chúng dừng lại từng chặng để nghe các đoạn sách Ngôn sứ nói về cuộc Thương khó của người Tôi Tớ Thiên Chúa, suy niệm các đoạn Tin mừng nói về đau khổ của Chúa, cầu nguyện và hát thánh ca. Cuối lộ trình là nơi Chúa chịu đóng đinh, Giám mục sẽ đưa cao cây Thánh giá cho dân chúng tôn thờ.
Tại Rôma thế kỷ VII, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh người ta tưởng niệm cuộc khổ nạn bằng cách suy gẫm trình thuật Thương khó theo Tin mừng Gioan, sau đó cộng đoàn sẽ đọc lời cầu chung cho Giáo Hội, các nhà lãnh đạo thế giới, cầu cho sự hiệp nhất và cho mọi nhu cầu của nhân loại. Vì không cử hành thánh lễ nên nhiều nhà thờ tổ chức cử hành phụng vụ Lời Chúa cách trọng thể: Thánh giá có tượng chịu nạn được để trên bàn thờ cho dân chúng tôn thờ, nghe Lời Chúa và suy gẫm về cuộc khổ nạn của Người, sau đó rước lễ (x. Năm phụng vụ , Nguyễn Thế Thủ, ĐCV Giuse Tp HCM 2001, tr 59).
Trước năm 1955, việc cử hành phụng vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh có sự khác biệt so với hiện nay: ban sáng cử hành phụng vụ Lời Chúa và suy tôn Thánh giá, buổi chiều đi đàng Thánh giá, buổi tối nghe “giảng đại phúc” về cuộc Thương khó của Chúa Giêsu. Nhưng sau 1955 có sự sắp xếp lại việc cử hành nghi thức: buổi chiều cử hành cuộc Thương khó và tôn vinh Thánh giá, đồng thời cho phép cộng đoàn phụng vụ rước lễ nhưng không cử hành thánh lễ. Nghi thức từ năm 1970 đến nay không thay đổi gì nhiều về cấu trúc và giờ cử hành, nhưng chỉ thay đổi về các bài đọc, sắp xếp lại các lời nguyện cũng như thêm vào một số ý nguyện mới theo tinh thần của Vaticano II. (x. Năm phụng vụ , Nguyễn Thế Thủ, ĐCV Giuse Tp HCM 2001, tr 66)
b. Ý nghĩa
Theo Kinh Thánh, trước ngày Lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu đã bị xử án tại dinh Philatô vào lúc tảng sáng, rồi Người bị kết án Tử hình, vác thập giá đến pháp trường, bị đóng đinh vào thập giá, bị treo lên và rồi Người tắt thở trên thập giá vào khoảng 3 giờ chiều. Vì thế, hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta hãy chăm chú suy niệm về tình thương của Ngài qua những khổ hình và cuộc tử nạn của Người được trình bày qua bài Thương Khó. Chúng ta hãy suy niệm về mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô. Hôm nay là ngày thích hợp để mỗi Kitô hữu chúng ta trở về với lòng mình. Chúng ta hãy kết hợp lòng mình với những đau khổ mà Ngài đã chịu vì yêu thương ta và muốn cứu độ ta.
Việc cử hành vào chiều Thứ Sáu không phải là Thánh lễ mà chỉ là một Nghi lễ tưởng niệm việc Đức Giêsu chịu chết. Đây không phải là những lễ nghi chỉ gợi nên một cuộc trình diễn bi kịch cảm động về cuộc thương khó của Đức Giêsu. Đây là một mầu nhiệm Đức Tin. Chúng ta phải luôn tin rằng Đức Giêsu chết và đã sống lại để cứu độ chúng ta. Nhưng để có thể hiểu chúng ta được cứu khỏi một vực thẳm đầy tội lỗi và gian tà như thế nào, chúng ta cùng với Ngài bước xuống vực thẳm đó. Nghi lễ Thứ Sáu tuần thánh nhắc lại việc Đức Giêsu xuống vực thẳm ấy, đó là tội lỗi của loài người, những đau khổ của nhân loại về thể xác cũng như tinh thần (bị hất hủi, bị người thân phản bội, bị thất bại, bị xâm phạm thân thể, bị đối xử bất công, bị nhục nhã, nỗi lo âu khủng khiếp như hấp hối, sợ hãi, chết v.v.). Nghi lễ hôm nay phải giúp ta ý thức tầm mức nghiêm trọng của sự dữ và sự tội ; đồng thời ý thức giá trị tuyệt vời của việc Chúa cứu chuộc chúng ta. Hôm nay cũng là dịp thuận tiện để ta giục lòng thống hối, hoán cải tâm hồn qua việc chay tịnh, hãm mình hy sinh và đền tội.
4. Thứ Bảy Tuần Thánh
a. Nguồn gốc
Ngay từ thế hệ Kitô hữu đầu tiên, đã có việc cử hành hằng năm mừng Chúa sống lại. Trong suốt ba thế kỷ đầu, đây là lễ hội duy nhất được ghi nhận trong Giáo Hội. Việc cử hành nguyên thủy – tiền thân của Lễ Phục Sinh sau này – được thực hiện bằng hình thức một cuộc canh thức (vigilia trong tiếng La tinh có nghĩa là “sự tỉnh thức” hay “đợi chờ”). Thật dễ hiểu tại sao các Kitô hữu đã chọn những giờ khắc của ban đêm để cử hành cảm nghiệm tôn giáo của mình về cuộc khải thắng của Đức Kitô trên sự chết và tội lỗi – đồng thời đó cũng là cuộc khải thắng của chính họ cùng với Đức Kitô. Chính trong những giờ khắc của đêm tối trước ngày thứ nhất trong tuần (ngày Chúa Nhật) mà mầu nhiệm này đã diễn ra. (Mt 28,11; Mc 16,1; Lc 24,1; Ga 20,1).
Vào thời Giáo Hội sơ khai, có một niềm tin rất phổ biến rằng Chúa Phục Sinh sẽ trở lại trong chính những giờ khắc đêm tối này của Đêm Canh Thức Phục Sinh. Vì vậy, điều đương nhiên là tất cả mọi người cùng có mặt và chờ đợi. Đây sẽ là sự trở lại cuối cùng trong vinh quang của Người, và ngày nay trong mỗi Thánh Lễ, lời loan báo về sự cáo chung của thời gian vẫn còn vang lên để xác tín: “Đức Kitô đã chết, đã sống lại và sẽ đến!”.
Ngoại trừ một số thay đổi, nhất là thay đổi về thời lượng, nghi thức đã được canh tân ngày nay phản ảnh rõ chính nghi thức của những thế kỷ ban đầu. Vừa khi sao hôm xuất hiện trên bầu trời, các nghi thức bắt đầu được cử hành và kéo dài suốt cả đêm. Những khoảnh khắc đầu tiên dành cho việc đọc các bài đọc Thánh Kinh và những lời nguyện. Các bài đọc Thánh Kinh – thường gồm 12 bài – nhấn mạnh ý nghĩa tiên tri về một công cuộc sáng tạo và cứu độ mới bằng nước. Đó là những bản văn nói về cuộc tạo dựng ban đầu, sự sa ngã, trận lụt hồng thủy, câu chuyện sát tế Isaac, biến cố các thiên thần vượt qua cửa nhà người Do Thái để tàn sát các con trai đầu lòng của người Ai Cập, cuộc vượt qua Biển Đỏ và hành trình tiến vào Đất Hứa.
Khi bóng tối đã trùm kín không gian cũng là lúc chủ đề nói trên được thể hiện bằng nghi thức sáng tạo mới qua nước của Phép Rửa, nhất là Phép Rửa cho người trưởng thành. Vốn là một nét đặc trưng của Đêm Canh Thức Phục Sinh, nghi thức này bắt đầu với việc làm phép nước Phục Sinh một cách trọng thể. Trong khi cộng đoàn hát Kinh Cầu Các Thánh, cây Nến Phục Sinh cháy sáng được cắm vào nước, và dầu thánh cũng được chế vào hòa lẫn với nước. Giờ đây, những người dự tòng – thường đã được chuẩn bị từ vài năm trước – sẽ tuyên hứa từ bỏ mọi ảnh hưởng của Satan trên con người cũ của mình; họ tuyên xưng đức tin, lãnh nhận Phép Rửa, được xức dầu và mặc áo trắng. Vào thế kỷ thứ 5, trong Giáo Hội Rôma có thực hiện việc xức dầu lần thứ hai do đức giám mục – và đây chính là dạng ban đầu của bí tích Thêm Sức.
Trong những thế kỷ đầu tiên, người ta có thói quen trao sữa và mật ong đã được làm phép cho những người mới lãnh nhận Phép Rửa. Cử chỉ này có ý nghĩa rằng người mới lãnh Phép Rửa là người còn non nớt trong đức tin, gọi là tân tòng. Cử chỉ ấy cũng ám chỉ rằng họ vừa mới tiến vào miền Đất Hứa mới “chảy tràn sữa và mật ong”. Việc thực hành nói trên, có tầm vóc đánh dấu một mốc điểm quan trọng trong cả đời sống, vốn là một thực hành được vay mượn từ các thần thoại ngoại giáo. Cuối cùng, gần lúc tờ mờ sáng, những người mới lãnh Phép Rửa sẽ rước Thánh Thể lần đầu cùng với cộng đoàn tín hữu.
b. Ý nghĩa
Việc tưởng niệm Đức Kitô chịu chết và sống lại đạt tới cao điểm trong đêm nay. Đêm nay là đêm thánh của người Kitô hữu. Đêm nay cộng đoàn Kitô hữu ôn lại tất cả lịch sử cứu độ, từ buổi khai sinh lập địa và việc dân Israel ra khỏi Aicập cho đến việc Đức Giêsu sống lại và được tôn vinh trên trời. Thánh Augustin, trong tác phẩm “ Sermo ” đã coi Canh thức Vượt Qua trong đêm Vọng Phục Sinh là “ Mẹ của mọi lễ Canh Thức ”. Khi cử hành Canh thức này, Giáo hội canh thức để mong đợi Chúa Kitô sống lại và cử hành mầu nhiệm Phục sinh ấy trong các bí tích. Vì thế, mọi cử hành trong đêm Canh thức Vượt Qua phải được tổ chức vào ban đêm, nghĩa là khi bắt đầu đêm tối và kết thúc trước rạng đông ngày Chúa nhật. (x. Sách lễ Roma, Quy định tổng quát về năm phụng vụ và Niên lịch, số 21)
Đêm nay, người Kitô tận hưởng niềm vui Chúa Phục Sinh sau 40 đêm ngày ăn chay, hãm mình và cầu nguyện. Đêm nay, niềm vui của người Kitô hữu được thể hiện qua việc đi từ đêm tối đến ánh sáng, đi từ cõi chết âm u tiến vào cõi sống tưng bừng hoan hỷ. Đêm nay người Kitô hữu được mời gọi theo lời khuyên của Đức Kitô, họ cầm đèn sáng trong tay giống như những người đang tỉnh thức đợi chủ trở về để đưa họ vào bàn tiệc. Đêm nay, họ được nếm trước niềm vui của thánh Giêrusalem trên trời. Vì thế, đêm nay, họ hát vang lời Allêluia! Mừng Chúa Phục Sinh!
Lời Kết
Biến cố Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và sống lại xảy ra trong bối cảnh lễ Vượt Qua, là cử hành quan trọng nhất trong niên lịch của người Do thái. Ngày quan trọng nhất đối với người Do thái đã trở thành ngày thánh thiêng nhất đối với người Kitô hữu. Việc cử hành phụng vụ Tam nhật thánh không dừng lại ở việc hướng về, tưởng nhớ một sự kiện lịch sử chan hòa ý nghĩa xúc động và đầy sức tác động, nhưng quan trọng trên hết chính là tái diễn cách sống động sự kiện Đức Giêsu đã chết và sống lại trong hiện tại và kéo dài đến tương lai. Vì thế, cuộc sống của người Kitô hữu được mời gọi nối dài các mầu nhiệm của Đức Kitô, đặc biệt là Mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Người. Chúng ta được mời gọi biết chết với Đức Kitô để rồi cũng được sống lại với Ngài. Chính là Chúa Giêsu Kitô là sức mạnh, bình an và nguồn mọi ơn phúc của mỗi người chúng ta.
(Lược trích Phụng Vụ Tuần Thánh Nguồn Gốc, Ý Nghĩa Và Việc Cử Hành)
Nguồn giaophanphucuong.org

Tiếp theo, LM Phạm Đình Ngọc đã dựa theo Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) (TH.NVTM) của ĐTC Phan-xi-cô để đưa ra ba điểm chính nhấn mạnh đến một bài giảng hay. Đó là: Bài giảng phải đạt mục đích của rao giảng Lời Chúa, bài giảng điều tiết sao cho thời lượng vừa đủ, bài giảng phải đạt được hiệu quả diễn tả và truyền đạt tình yêu của Lời Chúa là những lời yêu thương đến cho mọi người.
Trước đây ngày 28-1-2023, cũng trên trang của HĐGMVN, có đăng bài của dịch giả Tý Linh chuyển ngữ từ bài viết của tác giả Gilles Donada trên nhật báo La Croix, tựa là “Ba bí quyết của Đức Thánh Cha Phanxicô để làm cho bài giảng thành công”, với đoạn mở đầu như sau: [2]
“Đức Phan-xi-cô thường xuyên nổi giận với những bài giảng tồi, vốn làm tổn hại đến sức khỏe tinh thần của các linh mục và giáo dân. Đức Thánh Cha đã nhắc nhở là bài giảng nằm ở “trung tâm của Thánh lễ”, và đồng thời ngài cũng đưa ra ba lời khuyên dưới dạng các điểm cần lưu ý: - Đừng ngần ngại dành thời gian cho bài giảng; - Kết nối tốt với công chúng của mình; - Nói ngắn gọn và đơn giản.”
Chúng ta biết rằng, ĐTC Phan-xi-cô là người rất quan tâm đến việc giảng lễ của linh mục. Riêng trong TH.NVTM ngài đã dành 3 chương có tựa “Loan báo Tin Mừng” gồm các đoạn từ 135 đến 159 để đề cập đến việc giảng lễ của mục tử. Ngài từng nhấn mạnh: “Tôi rất khuyến khích việc chuẩn bị bài giảng và chăm lo việc giảng thuyết”. Bởi vì theo ngài, “Bài giảng là viên đá thử để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của người mục tử với dân chúng. Chúng ta biết các tín hữu rất coi trọng bài giảng và cả các tín hữu lẫn các thừa tác viên có chức thánh đều khổ sở vì các bài giảng: giáo dân vì phải nghe các bài giảng, còn các giáo sĩ vì phải giảng bài! Đây là trường hợp đáng buồn. …Bài giảng thực ra có thể là một trải nghiệm sâu đậm và vui sướng về Thần Khí, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với lời Thiên Chúa, một nguồn mạch canh tân và tăng trưởng thường xuyên” (TH.NVTM số 135).
Có thể nói đại đa số giáo dân khi đến tham dự Thánh lễ đều chú ý đến bài giảng của linh mục. Một Thánh lễ mà không có bài giảng thì như một bữa ăn thịnh soạn nhưng còn thiếu một món gì đó đặc biệt! Và như những thực khách “sành điệu”, người giáo dân ngày nay luôn kỳ vọng các vị linh mục, các nhà giảng thuyết sẽ cung cấp cho họ những món ngon, mới, lạ, thích hợp... Tuy nhiên, trên thực tế không phải bất kỳ nhà giảng thuyết nào cũng ban tặng cho cộng đoàn những món ăn ngon mà họ luôn mong đợi. Thỉnh thoảng chúng ta có dịp nghe người này người kia nhận xét, chẳng hạn: “Cha giảng dài quá, nghe mệt và chẳng hiểu cha muốn nói gì...”, hoặc “Bài giảng rườm rà mà cha thì nói nhỏ, nhanh, khó nghe lại khó hiểu, chẳng nhớ được gì...”, hoặc “Cha giảng như đọc, nghe buồn ngủ quá, chẳng sinh động gì cả, chán!” vv...
Đây là một thực tế rõ ràng, cụ thể. Và còn hơn thế nữa, như một vị giám mục đã chia sẻ: “...Bài giảng lễ thì lòng thòng và chủ yếu là mắng mỏ, hăm dọa, khiển trách, thậm chí bôi bác giáo dân giữa nhà thờ. Bài giảng không dọn nói mãi không kết được khiến cha giống như máy bay không tìm được phi trường. Người nói thường không cảm thấy dài nhưng đối với người nghe là cả một sự chịu đựng. Nhất là nếu chúng ta không có lợi khẩu, chúng ta làm khổ giáo dân, biến họ thành nạn nhân hơn là nâng tâm hồn họ lên. Diễn đàn Lời Chúa là diễn đàn tình thương nhưng rất nhiều cha lợi dụng để trút hết căm hờn lên đầu giáo dân. Không gì mâu thuẫn bằng linh mục lại là thủ phạm gây chia rẽ trong giáo xứ bằng chính lời nói của chủ chăn. Chúng ta tìm cách trừng trị triệt hạ những người đối lập. Không làm được thì chúng ta đem ra giữa nhà thờ để bêu diếu bôi bác.” [3]
Quả vậy, nếu giáo dân không hài lòng về bài giảng của linh mục, thì đó không phải là họ không muốn nghe giảng trong Thánh lễ, mà vì họ cảm thấy việc giảng ấy không đem lại hứng thú và lợi ích gì. Cảm giác không-hứng-thú sẽ dẫn đến việc buồn ngủ, lơ là, lo ra...và nhất là cảm giác bị-tra-tấn bởi phải nghe một diễn giả nói dài, nói dai và...nói dở! Tội nghiệp cho cử tọa khi phải rơi vào tình huống “khó chịu” như thế. Thực ra, giáo dân không đòi hỏi quá đáng đâu, vì “Nếu mỗi linh mục đều ý thức giảng thuyết là một phần trong nghề nghiệp của mình, thì tất yếu chúng ta sẽ chẳng có những bài giảng thiếu chuẩn bị, nghèo nàn.” [4]
Trước khi bàn về những yếu tố khả dĩ giúp cho bài giảng thành công, sau đây chúng ta thử đề cập về ý nghĩa và mục đích chính yếu của việc giảng lễ là gì.
1.- Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC GIẢNG LỄ
1.1. Ý nghĩa việc giảng lễ
LM Giuse Huỳnh Văn Sỹ trong bài viết “Bài giảng trong Thánh lễ: Khía cạnh pháp lý và mục vụ” trên trang web Gp Qui Nhơn ngày Chúa nhật 05-11-2017 đã nêu ra ý nghĩa và tầm quan trọng của giảng lễ, nguyên văn như sau: [5]
Ý nghĩa từ ngữ Giảng lễ (Homilia): Trong những hình thức giảng Lời Chúa, giáo luật đặc biệt lưu ý giảng lễ (điều 767) và giảng tĩnh tâm hoặc tuần đại phúc (điều 770). Giảng lễ là một hình thức giảng thuyết nhưng không phải bất cứ sự giảng thuyết nào cũng là giảng lễ. Homilia theo nguyên ngữ Hy lạp để chỉ một sự đàm thoại, cuộc nói chuyện thân mật. Trước đây, homilia còn để chỉ lời cầu nguyện hoặc bài giảng của Giám mục.
Trong một số văn kiện của Giáo Hội, homilia được dùng để chỉ bài giảng trong khung cảnh cử hành phụng vụ nói chung mà đặc biệt để chỉ bài giảng trong thánh lễ, là một phần không tách rời của thánh lễ và cần thiết để nuôi dưỡng đời sống Ki-tô hữu. Ở đây theo mạch văn của điều 767 và nhiều văn kiện khác, chúng ta chỉ giới hạn xét homilia là bài giảng sau khi công bố Tin Mừng trong khung cảnh Thánh lễ và có thể gọi tắt là giảng lễ.
Giảng lễ là gì? Dường như không có một định nghĩa ngắn gọn nào nhưng có những cách diễn tả về giảng lễ. Chẳng hạn theo Hiến chế về Phụng vụ Thánh, “bài giảng căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức tin và những qui tắc cho đời sống Kitô giáo trong suốt chu kỳ năm phụng vụ, rất đáng được coi như một phần của chính Phụng vụ”. Theo Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (Institutio Generalis Missalis Romani), “bài giảng lễ (homilia) là thành phần của phụng vụ và rất được khuyến khích, vì cần thiết để nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu. Bài này phải diễn giải hoặc một khía cạnh nào của các bài đọc Thánh Kinh, hoặc một bản văn khác thuộc phần Thường Lễ hay phần Riêng của Thánh Lễ ngày đó, đồng thời lưu ý đến mầu nhiệm được kính nhớ, hay nhu cầu riêng biệt của thính giả”.
Như vậy, bài giảng lễ phải “phản chiếu ý nghĩa của các bài đọc và các lời nguyện của việc cử hành phụng vụ dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua; bài giảng lễ dẫn đưa cộng đoàn đến việc cử hành bí tích Thánh Thể nơi đó mọi người hiệp thông với nhau trong chính mầu nhiệm Vượt Qua.”
Riêng ĐGM Phê-rô Nguyễn Khảm, giáo phận Mỹ Tho trong cuốn “Giảng thuyết - Hồng ân và Trách nhiệm” đã viết như sau: “Không dễ để có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về homilia. Tuy nhiên, dựa vào những gì đã khai triển, có thể đề nghị một định nghĩa tạm thời nhằm hướng dẫn như sau: Homilia là bài giảng gắn liền với Phụng Vụ nhằm công bố mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Homilia gọi mời và giúp người nghe đến với đức tin, tham dự cách sâu xa hơn vào cử hành Thánh Thể, và sống đời môn đệ Chúa Ki-tô cách mạnh mẽ hơn trong Giáo hội”. [6]
2.2. Mục đích việc giảng lễ
LM Phạm Đình Ngọc, trong bài “Giảng lễ thế nào cho hay?” đã dẫn trên, đã nêu lên mục đích của rao giảng Lời Chúa như sau:
“Cần nhớ rằng: Việc rao giảng lời Chúa trong phụng vụ, đặc biệt trong cuộc tụ họp Thánh Thể, không phải là thời gian suy niệm hay huấn giáo cho bằng một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân của Người, một cuộc đối thoại trong đó các hành vi cứu độ vĩ đại được công bố và các đòi hỏi của giao ước được liên tục nhắc lại. (TH.NVTM số 137) Vì mục đích này, Giáo hội khuyên các linh mục cần giảng lời như lời của người mẹ nói chuyện với con (TH.NVTM số 139-148). Nói sao cho con dễ hiểu, thích nghe và dễ thực hành là điều đáng chú tâm.
“Để đạt được mục đích trên, các linh mục cần chú tâm đến những lời nói giúp trái tim bừng cháy. Người tham dự cũng cần chú ý đến mục đích này, để lòng mình được sáng lên: Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Kitô. (Rm 10,17). Như vậy, những lời của linh mục như là lời trung gian của Thiên Chúa nói với dân. Linh mục nào càng gần Thiên Chúa, càng lắng nghe Lời Chúa, người ấy càng có khả năng nói cho dân hiểu. Như lời Giáo hội nhắn nhủ các phó tế và linh mục: Trước hết phải phát triển một sự thân mật sâu xa với Lời Chúa. Hiểu biết các khía cạnh ngôn ngữ hay chú giải chắc chắn là cần nhưng không đủ. Họ cần đến với Lời Chúa bằng một con tim ngoan ngoãn và cầu nguyện, để lời thấm sâu vào các tư tưởng và tình cảm của họ và tạo một cái nhìn mới nơi họ.” (TH.NVTM số 149)
Trên thực tế chúng ta thấy rằng, nhiều vị giảng lễ đã làm “hỏng” bài giảng của mình vì đã đi trệch mục tiêu cơ bản của nhiệm vụ giảng lễ. Các ngài đã say sưa với ý và lời riêng của mình mà quên rao truyền Lời Chúa. Các ngài chăm chú vào việc “độc thoại” mà quên hẳn việc kết nối với Dân Chúa, khiến cho họ cảm thấy lạc lõng và bơ vơ mặc dù họ ngồi đó chăm chú nghe giảng. Các ngài thích sa đà vào việc “thuyết giáo” hơn là giảng lễ khiến cho cộng đoàn Phụng Vụ mất đi bầu khí thánh thiêng của bàn tiệc Lời Chúa…
Trong bài “Linh mục hãy thôi lạm dụng bài giảng” nhắc lại nội dung bài giảng của ĐTGM Socrates b. Villegas, OP, ngài thuộc Huynh đoàn Giáo sĩ Đa Minh, Tỉnh dòng Đa Minh Philippines, ngày 12-6-2015, có đoạn viết sau:
“Chúng ta đã từng chứng kiến cách linh mục lạm dụng, từ việc lạm dụng rượu bia, tình dục, trẻ em, cờ bạc, tiền của, lạm dụng đi du lịch và các kỳ nghỉ. Hôm nay, tôi mời mọi người cùng suy ngẫm về một sự lạm dụng rất phổ biến khác vốn đang lan tràn trong hàng ngũ linh mục, đó là lạm dụng bài giảng. Vâng, đó là lạm dụng lòng tốt của dân Chúa, buộc họ phải nghe những bài giảng dài dòng, loanh quanh, miên man, nhàm chán, không đầu không đuôi. Sự thiếu chuẩn bị dẫn đến lầm bầm, hoặc nói bông đùa nhưng với dụng ý rõ ràng. Những điều đó khiến dân Chúa nói rằng bài giảng của chúng ta là những đòn tra tấn mà họ cực chẳng đã phải chịu mỗi khi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật.
“Hãy thận trọng trong mọi bài giảng. Thiên Chúa sẽ phán xét mọi lời các linh mục thốt ra. Hãy tin những gì mình đọc. Hãy dạy những gì mình tin. Và thực hành những gì mình dạy.
“Hãy cẩn thận với mọi bài giảng. Giáo dân muốn nghe Lời Chúa chứ không phải lời của linh mục; chỉ có Lời Chúa mà thôi, luôn luôn là như vậy.
“Hãy ý tứ với bài giảng của mình. Hãy thương hại dân Chúa. Đừng lạm dụng bài giảng nữa. Hãy để bài giảng của mình truyền cảm hứng và nung nóng trái tim người tín hữu.” [7]
2.- CÁC YẾU TỐ GÓP PHẦN THÀNH CÔNG CỦA BÀI GIẢNG
Khi bàn về sự thành công của việc giảng lễ, chúng ta không bàn đến khái niệm “hay” (Giảng thế nào cho hay!?) của bài giảng cho bằng muốn nhắm đến cái hiệu quả của việc rao giảng mà vị giảng lễ đã đem đến cho cộng đoàn. Bởi vì xét cho cùng, nếu bài giảng không thành công, đó không phải là lỗi do người nghe cho bằng do sự thiếu sót của người nói. Đối với người tín hữu, thông qua bài giảng, họ được đưa vào cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Thiên Chúa và dân của Người. Linh mục vừa là người hướng dẫn cuộc gặp gỡ, vừa là người khai mở cuộc đối thoại thân mật, vừa là trung gian truyền đạt Lời Chúa một cách hiệu quả. Thực tế cho thấy có nhiều người đã được biến đổi cách kỳ lạ sau một hai bài giảng của linh mục.
Thực vậy, với đức tin và lòng mến của mình, người tín hữu theo dõi, lắng nghe vị linh mục giảng như là đang nghe Chúa nói vậy. Lời nói, dung mạo, cử chỉ, cung cách của ngài sẽ có sức hút đặc biệt nếu ngài đam mê rao giảng Lời Chúa và coi đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và nghiêm túc. Có thể khẳng định như sau, “Công việc của linh mục quan trọng nhất trong mọi hoạt động của nhân loại. Ngài sinh ra đời chỉ để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chức vụ trung gian ấy buộc ngài phải nói và nói có kết quả cho dân mình, truyền cho họ niềm tin và giáo huấn luân lý mà Con Thiên Chúa đã trao cho con người như là phương thế để đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu trên trời.” [8]
Sau đây, với suy nghĩ và cảm nghiệm của một tín hữu giáo dân trong cộng đoàn Dân Chúa, tôi xin tạm liệt kê một số yếu tố thực tế có liên quan đến sự thành công của một bài giảng.
2.1. Yếu tố liên quan thời lượng bài giảng
Chúng ta biết rằng yếu tố thời lượng của bài giảng tuy không phải là yếu tố quan trọng nhất trong việc giảng lễ, nhưng lại có thể ảnh hưởng không nhỏ đến sự thành công của bài giảng. Bàn về vấn đề giảng ngắn hay dài, LM Phạm Đình Ngọc trong bài đã dẫn có viết:
“ĐGH Phanxicô gợi ý về dung lượng thời gian cho một bài giảng giải Tin Mừng Chúa Nhật là 8 phút. Điều này được một linh mục tiến sĩ Fábry Kornél người Hungary, chuyên về phụng vụ, giải thích dí dỏm như sau: Trong một bài giảng, 7 phút đầu là những lời của Thiên Chúa, 2 phút sau là những lời của người giảng, những phút còn lại là những lời của ma quỷ!!!... Hẳn nhiên đó là những lời nói vui, nhưng có thể giúp mỗi người giảng như chúng tôi là các linh mục cần “bác ái” với người nghe. Trong Kinh Thánh chẳng hạn, chúng ta có thể tìm thấy những lời khuyên về cách chuẩn bị một bài giảng thế nào để có thể đến được với dân một cách hiệu quả nhất: Hãy nói cho gọn, ít lời, nhiều ý” (Hc 32,8). Nghĩa là một bài giảng tốt phải có một ý tưởng, một tình cảm, một hình ảnh.”
Có thể khẳng định là đa số giáo dân rất sợ bài giảng dài, nhất là đó lại là “bài giảng 3 D” (dài – dai – dở!). Khi phải nghe “bài giảng 3 D” thì ai cũng ngao ngán, buồn ngủ, chỉ muốn vị giảng lễ kết thúc càng sớm càng tốt. Thực ra, bài giảng dài ngắn cũng tùy đối tượng nghe và tùy hoàn cảnh, nhưng theo các nhà chuyên môn về giảng lễ thì nên giới hạn từ 8 đến 10 phút, hay dài lắm thì cũng chỉ 12 phút mà thôi.
Về vấn đề này, ĐTC Phan-xi-cô trong TH.NVTM đã dạy như sau: “Bài giảng không thể mang một hình thức giải trí giống như những bài giảng trên các phương tiện đại chúng, nhưng bài giảng phải ban sức sống và ý nghĩa cho cuộc cử hành. Nó là một thể loại đặc trưng, vì việc giảng dạy được đặt trong khung cảnh một cuộc cử hành phụng vụ; thế nên bài giảng phải ngắn và tránh mang dáng dấp của một bài diễn văn hay thuyết trình. Một giảng viên có thể thu hút sự chú ý của người nghe trong suốt một giờ đồng hồ, nhưng lúc ấy các lời giảng của họ trở thành quan trọng hơn việc cử hành đức tin. Nếu bài giảng quá dài, nó sẽ ảnh hưởng tới hai yếu tố đặc trưng của cử hành phụng vụ: sự cân bằng và nhịp độ” (số 137).
2.2. Yếu tố liên quan việc dàn dựng bố cục bài giảng
Tại sao chúng ta lại đề cập đến yếu tố này? Vì rằng một bài giảng chứa đựng các ý tưởng rõ ràng, dễ hiểu được sắp xếp trong một bài nói có bố cục chặt chẽ, mạch lạc và lối hành văn đơn giản sẽ thu hút người nghe nhiều hơn là một bài giảng ý tưởng cầu kỳ, bố cục phức tạp và lối hành văn rối rắm. Thực tế có nhiều vị giảng lễ khi vừa bước lên giảng đài đã bắt đầu thao thao bất tuyệt nhưng cử tọa thì không biết ngài bắt đầu nhập đề từ chỗ nào, chỗ nào thì diễn giải vấn đề, chỗ nào mở, chỗ nào đóng vv…tất cả là rối mù và mọi người chỉ còn biết chăm chú lắng nghe nhưng thực tế là chẳng hiểu ngài muốn nói gì!
Trong bài “Ba bí quyết của Đức Thánh Cha Phanxicô để làm cho bài giảng thành công” đã dẫn trên, tác giả Gilles Donada có nhắc lại việc ĐTC Phan-xi-cô đã nói với các tân linh mục mà ngài vừa phong chức: “Các con hãy nói cách đơn giản, hãy nói với các tâm hồn.” Ngài nói thêm, có nguy cơ nói đi nói lại mãi: hãy nói cách ngắn gọn, không hơn mười phút. ĐTC tóm tắt các thành phần của một bài-giảng-hay trong ba từ khóa: Một ý tưởng, một hình ảnh và một cảm xúc, và ngài nêu rõ: “Hãy để mọi người ra về với một ý tưởng, một hình ảnh và một điều gì đó lay động trong tâm hồn họ. Việc loan báo Tin Mừng thật đơn giản! Và Chúa Giêsu đã rao giảng như thế, Ngài lấy chim trời, Ngài lấy đồng ruộng, Ngài lấy (…) những điều cụ thể, nhưng mọi người hiểu được.”
ĐGM GB Bùi Tuần, giáo phận Long Xuyên là người rất quan tâm nhiều tới việc giảng lễ đã có dịp chia sẻ kinh nghiệm vắn tắt như sau: “Một bài giảng được dàn dựng cách khoa học với các tư tưởng đã được chọn lựa về Thiên Chúa và về con người sẽ làm cho người nghe cảm thấy dễ chịu bởi vì thính giả thấy mình được kính trọng do được phục vụ bởi những tư tưởng có chất lượng và cách sắp xếp có khoa học.” [9]
Một bài giảng được soạn thảo một cách cẩn thận sẽ không bỏ qua việc dàn dựng thiết kế bố cục sao cho ăn khớp với chủ đề và thời lượng cần có. Cử tọa sẽ được dẫn dắt từng bước vào lộ trình của bài giảng thông qua lời dẫn nhập, rối đến phần triển khai đề tài, sau cùng là kết thúc bằng việc nhắc lại ý chính, chủ điểm của bài giảng. Trên thực tế có nhiều vị giảng lễ, vì không đầu tư nhiều cho bài giảng nên bắt đầu giảng là bắt đầu đi lòng vòng, kể hết chuyện này đến chuyện kia, trong khi cử tọa kiên nhẫn chờ đợi xem ngài sẽ nói gì, vấn đề gì là trọng tâm, điều gì là quan trọng trong thông điệp của bài giảng. Cuối cùng, vị giảng này đã đi trật đường rầy lúc nào không biết, vì một bài giảng không mở, không dẫn, không triển khai và không kết thúc.
Quả thực, khi nghe giảng, giáo dân mong đợi một bài giảng có chủ đích, có chủ điểm. Họ muốn diễn giả luôn xoáy vào trọng tâm vấn đề để họ có thể nắm bắt được ý hướng Phụng vụ của Thánh lễ đang tham dự. Nếu khi soạn bài giảng, linh mục biết mình sẽ nói gì, nói như thế nào, thì giáo dân khi nghe giảng cũng muốn rằng họ đang được nuôi dưỡng bằng lương thực nào, chất lượng ra sao. Nhiều diễn giả thích nói lời mình hơn Lời Chúa, trong khi giáo dân rất đói khát Lời Chúa!
Linh Mục Christopher Chatteris S.J, khi đề cập đến việc giảng thuyết, đã dựa trên kinh nghiệm và các tác phẩm của ĐGM Kenneth Untener, nguyên giám mục giáo phận Saginaw, Michigan (Hoa Kỳ) cho biết là trong tác phẩm “Giảng tốt hơn”, ĐGM Untener đưa ra vài gợi ý được lấy ra từ những buổi phỏng vấn một số tín hữu trong giáo phận. Ngài viết rằng, người Mỹ chú trọng đến hiệu quả công việc, nên thường không thích những bài giảng nặng nề, dài dòng. Đừng nhập đề vòng vo, đặc biệt khi nó chẳng liên quan gì đến sứ điệp chính mà ta muốn trình bày. Ngài khuyên, “Đi ngay vào vấn đề”. Điều này cũng hợp lý thuận tình thôi, vì bài giảng cần phải lấy từ Thánh Kinh. Người nghe thường dị ứng, khó chịu nếu bài giảng bắt đầu với một câu chuyện chẳng ăn nhập gì, hoặc với một truyện cười không thích hợp, hay mở đầu bài giảng bằng một thông báo…
Bên cạnh đó, cũng theo ĐGM Untener, để bài giảng được ngắn gọn, ngài khuyên chỉ nên khai triển một ý chủ đạo hay một điểm son nào đó – một viên ngọc quý – sự sống của bài. Thay vì theo đuổi nhiều ý tưởng phụ thuộc. Thật là vô lý nếu biết rằng càng nói nhiều người ta càng không nghe mà lại cứ nói thêm. Điều quan trọng là trình bày một điểm chính thật kỹ càng, một điểm thôi nhưng có chiều sâu. Giảng thuyết là công việc lao động thực sự - một lao động của tình yêu, của học hỏi, của cầu nguyện, của thảo luận, và của suy tư.
Thiết nghĩ một bài giảng được dàn dựng một cách khoa học, được thiết kế với cấu trúc rõ ràng, thì sẽ tránh được sự nhàm chán, thất vọng nơi người nghe. Vì quả thực, giáo dân muốn linh mục khi giảng nên đi thẳng vào trọng tâm bài giảng và chỉ nói những gì cần phải nói mà thôi. Lạc đề là điều mà cử tọa dễ nhận ra. Nguyên tắc mong đợi, đó là “Diễn giả phải làm chủ đề tài của mình” (Albert J. Beveridge).
2.3. Yếu tố liên quan giọng nói người giảng và âm thanh trên giảng đài
Một yếu tố có tính chất “kỹ thuật” xem ra cũng khá quan trọng góp phần đem lại sự thành công của bài giảng, đó là giọng nói của người giảng và chất lượng của hệ thống âm thanh trên giảng đài. Nhiều vị giảng lễ không quan tâm đến giọng nói của mình khiến cử tọa rất khó nắm bắt được những gì ngài nói hay diễn đạt. Giọng tối, ù ù, phát âm không rõ, không chuẩn, lại thiếu “tròn vành, rõ chữ” nữa… cộng thêm cái âm thanh oang oang nhiều “écho” khiến cho người nghe mặc dù kiên nhẫn lắm cũng phải lắc đầu và cảm giác khó chịu.
ĐGM Phê-rô Nguyễn Văn Khảm, trong cuốn Giảng thuyết – Hồng ân và Trách nhiệm, khi bàn về ngôn ngữ diễn cảm trong giảng lễ đã có nhận xét như sau: “Tiếng nói không chỉ là phương tiện truyền tải ý nghĩa của ngôn từ, mà còn truyền thông cả tâm tư tình cảm của người nói đến với người nghe. Diễn giả thành công là người không chỉ truyền thông những ý tưởng mà còn có khả năng khơi dậy nơi người nghe những cảm xúc mà mình đang có, được gói ghém trong ngôn từ cũng như cung cách diễn giảng. Vì thế, người giảng cũng phải quan tâm đến những khám phá của ngành truyền thông về giọng nói, để có thể diễn đạt cách hiệu quả nội dung Lời Thiên Chúa.” [10]
Tác giả linh mục Thomas V. Liske S.T.D, giáo sư Hùng Biện trong cuốn “Thành công trên tòa giảng” khi đề cập vấn nạn ở chương tám Thính giả muốn gì?, đã viết như sau: “Qui tắc hướng dẫn tốt nhất để biết xem giọng giảng có hiệu quả không là: Đáp ứng được những đòi hỏi của thính giả. Mà các đòi hỏi của họ rất dứt khoát. Họ muốn giọng nói của diễn giả phải: Dễ nghe, Rõ ràng, Êm tai và Đúng nhịp. Diễn giả phải đáp ứng đủ bốn đòi hỏi này của thính giả. Đòi hỏi của họ xem ra rất hiển nhiên và xác đáng. Ấy vậy mà nhiều diễn giả cứ coi như không. Một số linh mục giảng thuyết không hề biết đến bốn đòi hỏi này. Nếu hỏi thử giáo dân về bài giảng của mình và phản ứng của họ, linh mục hẳn sẽ phải ngạc nhiên khi thấy nhiều người không nghe rõ lời mình giảng vì mình nói quá lẹ hoặc quá chậm, quá gằn giọng hay tệ hơn nữa, có vẻ như mình gay gắt với họ.” [11]
Cũng liên quan giọng nói của diễn giả, các nhà chuyên môn về diễn thuyết/ diễn giảng đều cho rằng, một trong những điểm đáng phê phán nhất ở những người diễn thuyết đó là giọng nói quá đều đều đơn điệu. Người nghe sẽ cảm thấy người diễn thuyết này thật buồn chán và tẻ nhạt. Đa số người nghe đều thừa nhận rằng họ chẳng lĩnh hội được gì mấy và đánh mất sự chú ý rất nhanh khi phải nghe những người diễn thuyết/ diễn giảng không chịu học cách điều chỉnh giọng nói của mình…
Thực vậy, cuộc đối thoại được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân Ngài có thể được sánh với “môi trường hiền mẫu và Giáo hội” mà “ngôn ngữ là một cung giọng truyền đạt lòng can đảm, khí thế, sức mạnh và sự thôi thúc”. Nơi người giảng thuyết, nó được biểu lộ bởi “sự ấm áp của cung giọng, sự nhẹ nhàng của cách hành văn, niềm vui trong các cử chỉ” (Đức Phan-xi-cô TH.NVTM số 139-140)
2.4. Yếu tố “tâm và tầm” của vị giảng thuyết
Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, ĐTC Phan-xi-cô đã nhắc nhở các mục tử: “Người giảng có nhiệm vụ tuyệt vời nhưng khó khăn là kết nối những trái tim yêu thương, trái tim của Chúa và của dân Người. Đối thoại giữa Thiên Chúa với dân của Người kiện cường giao ước giữa họ và củng cố tình bác ái. Trong bài giảng, lòng các tín hữu giữ thinh lặng để nghe Chúa nói. Chúa và dân Người trực tiếp nói chuyện với nhau bằng vô vàn cách thức mà không cần đến trung gian. Nhưng trong bài giảng, họ muốn có người làm trung gian và bày tỏ tình cảm của mình sao cho sau bài giảng, mỗi người có thể quyết định mình sẽ tiếp nối cuộc đối thoại theo cách nào mình thích.” (số 143)
Có thể nói sự thành công của vị giảng lễ không tùy thuộc ở những lời lẽ hoa mỹ, bóng bẩy hay ở cái phong thái hấp dẫn của một nhà hùng biện, cho bằng tùy vào thái độ ân cần và tấm lòng cởi mở của vị mục tử yêu thương và quan tâm tới cộng đoàn. Trên thực tế có nhiều vị giảng lễ khi bước lên giảng đài, hầu như quên rằng mình đang nói với ai và đang nói gì? Với một tư thế lạnh lùng, vô cảm, ngài giảng như giảng cho mình, ngài giảng như đọc một bài văn soạn sẵn, ngài không biểu lộ một dấu hiệu gì gọi là kết nối với cộng đoàn. Cặp mắt của ngài thay vì hướng về cử tọa thì lại dán chặt vào bài giảng viết sẵn trong cuốn sổ. Gương mặt, giọng nói, cử điệu của ngài cứng đơ, không tỏ một chút linh hoạt, gợi cảm và gần gũi thân mật với người nghe…
ĐTC Phan-xi-cô từng nhắc nhở các mục tử về việc kết nối tốt với công chúng của mình trong việc giảng lễ. Ngài nói: “Chính trong bài giảng mà chúng ta đo lường được mức độ gần gũi của người mục tử với đoàn dân của mình”. Ngài khuyến khích các linh mục “gần gũi”, “đến gần” dân chúng, biết các vấn đề của họ, cách sống và cách thể hiện của họ, những hoàn cảnh họ đang trải qua. Điều quan trọng là giữ kết nối với cuộc sống hằng ngày để không trở nên mơ hồ. Đức Thánh Cha nói: “Hãy nhớ rằng chúng ta không bao giờ cần trả lời cho những câu hỏi mà không ai đặt ra”.
Nếu cái Tâm giúp cho vị giảng lễ gần gũi, thân mật với người nghe thì cái Tầm giúp cho ngài nắm bắt được các nhu cầu thiết yếu của họ về đời sống tâm linh, đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Người đầu bếp giỏi khi chuẩn bị món ăn cho thực khách luôn biết rõ những sở thích, khẩu vị và thói quen ăn uống của người mà mình phục vụ. Khi vị giảng lễ hiểu được tâm tư, tình cảm và kiến thức của cộng đoàn ắt là ngài sẽ cung cấp cho họ một bài giảng chất lượng cao như là những món ăn thích hợp và bổ dưỡng.
Một trong những yếu tố giúp bài giảng lễ của linh mục thành công, đó là việc ngài mở rộng tầm nhìn để thấy được những góc cạnh hữu hình và những góc khuất vô hình của cộng đoàn mà ngài đang hướng dẫn. Có nhiều thực tế mà vị giảng lễ phải “xâm nhập” và đi sâu vào cộng đoàn mới thấy được hết những “vấn đề” ẩn khuất của họ. Thấy, hiểu, thấu cảm để mà chuẩn bị cho họ những bài giảng thiết thực, cụ thể, gần gũi và thích hợp.
Một trong những phương cách hữu hiệu để vị diễn giảng mở rộng tầm nhìn, đó là không ngừng học hỏi. Đức Tổng Giám mục Socrates b. Villegas, OP trong bài đã dẫn, đã nói như sau: “Đọc sách và nghiên cứu phải được tiếp tục sau khi đã chịu chức linh mục. Nếu chúng ta ngừng đọc sách và nghiên cứu, chúng ta sẽ làm tổn hại linh hồn của giáo dân. Nếu ngừng học hỏi, là chúng ta bắt đầu thúc ép người khác đọc cái gọi là cuốn sách cuộc đời chúng ta – một cuốn truyện khôi hài, không cảm hứng, hết sức lố bịch và tai tiếng khủng khiếp. Khi đó bài giảng trở thành câu chuyện đời chúng ta chứ không phải câu chuyện về Đức Giêsu. Tuy nhiên, dành quá nhiều thời gian để đọc sổ chi tiêu cũng không phải là cách để chuẩn bị bài giảng.” [12]
2.5. Yếu tố nội dung bài giảng
Có thể nói, yếu tố nội dung bài giảng là yếu tố cốt lõi nhất của việc giảng lễ. Vì thế khi bước lên giảng đài, vị giảng lễ sẽ luôn đặt câu hỏi cho mình là “Giảng gì? Giảng cho ai?” Tất nhiên câu trả lời rõ ràng là ngài sẽ giảng Lời Chúa và giảng cho người hôm nay. Bên cạnh đó, “còn có nhiều câu hỏi quan trọng khác mà người giảng phải đặt ra cho mình: về cộng đoàn phụng vụ, về bản văn Kinh Thánh, về mùa phụng vụ, về hoàn cảnh sống của người nghe. Nhưng câu hỏi nền tảng vẫn là “Chúa là ai? Chúa ở đâu?” đối với con người hôm nay. Người giáo dân đến nhà thờ để dự lễ Chúa Nhật. Họ tin vào Chúa nhưng họ muốn hỏi linh mục giảng: Chúa là ai? Chúa đang ở đâu? Chúa có mặt trong những biến cố đời sống tôi đang trải qua không?...” [13]
Nói về việc chuyển tải nội dung Lời Chúa trong bài giảng lễ, Đức cha Mat-thêu Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Chánh tòa Qui Nhơn đã nhắc nhở các tân chức trong bài giảng lễ truyền chức ngày 7-1-2021 như sau:
Để thi hành nhiệm vụ giáo huấn trong Đức Kitô là Thầy, các con hãy siêng năng đón nhận Lời Chúa bằng việc lắng nghe và suy niệm trong lòng, rồi đem phân phát cho dân Chúa bằng lời giảng dạy. Hãy chuẩn bị bài giảng thánh lễ mỗi ngày thật chu đáo, để có thể làm cho Lời Chúa trở nên lương thực hàng ngày cho dân Chúa. Bài giảng thánh lễ phải ưu tiên tập trung vào Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, nếu có đề cập đến giáo huấn của các tôn giáo khác hay tư tưởng của các tác giả đời, như các triết gia, văn thi sĩ, nhạc sĩ hay chính trị gia, thì cũng chỉ để đối chiếu mà thôi.
Không được tục hóa bài giảng bằng những nội dung và lời lẽ không phù hợp với sự thánh thiêng của phụng vụ Lời Chúa. Càng không được dùng tòa giảng để làm nơi phê bình chỉ trích cá nhân. Để cho lời giảng dạy có sức đánh động lòng người, các con cần có gương sáng đời sống thánh thiện đi kèm, vì người ta thích nhìn thấy bài giảng hơn là chỉ nghe bài giảng. Về vấn đề này Hội Thánh đã dạy: “Các con hãy chú tâm tin điều các con đọc, dạy điều các con tin và thi hành điều các con dạy”. Ngoài các bài giảng trong thánh lễ, các con cũng hãy tận dụng những dịp khác để trình bày Lời Chúa cho anh chị em tín hữu và cả cho những người lương dân trong những cuộc gặp gỡ hằng ngày. [14]
2.6. Yếu tố liên quan việc chuẩn bị một bài giảng
Có thể nói rằng muốn cho bài giảng lễ thành công, vị giảng thuyết phải quan tâm rất đặc biệt tới việc soạn bài giảng. Chúng ta biết rằng, “Mọi diễn giả thành công đều là những diễn giả soạn giảng kỹ lưỡng.” (Thomas V. Liske).
Cha sở họ Ars là một tấm gương về mục vụ giảng thuyết. Chuyện kể lại, cha rất quan tâm soạn bài giảng thật kỹ lưỡng. Cha thường dùng phòng áo để dọn giảng cho yên tĩnh. Cha nghiên cứu các tác giả, có khi xem tới 7 tác giả. Cha đánh dấu những đoạn cần phải chép lại và lắm khi phải phiên dịch tới 40 hay 50 trang sách. Học thuộc lòng trước vào thứ bảy và buổi tối sau khi bổn đạo về nhà, cha đi chung quanh nghĩa địa để lập lại những đoạn khó. Cha lại không quên cầu nguyện trước khi giảng...Cha giảng rất hùng hồn. Có người hỏi: “Tại sao lúc cầu nguyện thì cha nói nhỏ mà khi giảng cha lại nói to thế ?”. Cha trả lời : “Khi giảng phải nói to vì người nghe họ buồn ngủ và nặng tai, nhưng khi cầu nguyện với Chúa thì nói nhỏ vì Người không nặng tai”. Cha giảng rất hùng hồn và dạy dỗ với uy quyền. Bài giảng rất cụ thể với đời sống Dân Chúa và chỉ bảo phải làm gì hay làm như thế nào để giáo dân dễ thực hành.
Một nhà giảng thuyết phục vụ tốt không nhất thiết phải là một nhà thông thái, mà trên hết là một mục tử thánh thiện, một tông đồ nhiệt tình và một nhà truyền giáo đam mê việc gieo trồng Lời Chúa.
Sau đây là chứng từ sống về vấn đề giảng thuyết của một linh mục: “Một hôm, có người hỏi cha Mc Nabb, một nhà giảng thuyết thời danh, xem ngài đã dành ra bao nhiêu thời gian để soạn bài giảng. Ngài trả lời, ‘40 năm’...Khi trả lời như thế, cha Nabb muốn nói là ngài luôn quan tâm chăm lo nghiên cứu và bài giảng đó là kết quả của 40 năm phát triển về phương diện thiêng liêng và trí thức...Có thể nói, kinh nghiệm mục vụ, lòng nhiệt thành vì Nhà Chúa đã ảnh hưởng sâu sắc đến điều ngài giảng từ giảng đài... ” [15] ./.
________________
[1]https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giang-le-the-nao-cho-hay--50482
[2]https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/bai-giang-ba-bi-quyet-cua-duc-thanh-cha-phanxico-de-lam-cho-no-thanh-cong-49201
[3] ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh, Tĩnh tâm thường niên Gp Đàlạt tháng 2-2009
[4] LM Thomas V. Liske STD - Thành công trên tòa giảng - ĐCV Á Thánh Quý Cần Thơ 1995
[5]https://gpquinhon.org/q/tu-lieu/bai-giang-trong-thanh-le-khia-canh-phap-ly-va-muc-vu-631.html
[6] ĐGM P. Nguyễn Khảm – Giảng thuyết – Hồng ân và Trách nhiệm – Tái bản lần I NXB TG năm 2020 trang 34
[7] Đức Tổng Giám mục Socrates b. Villegas, OP - “Linh mục hãy thôi lạm dụng bài giảng” - http://daminhvn.net/nhan-dinh/linh-muc-hay-thoi-lam-dung-bai-giang-25689.html
[8] Linh mục, Giáo sư hùng biện Thomas V. Liske S.T.D - Thành Công Trên Tòa Giảng - ĐCV Á Thánh Quý Cần Thơ 1994
[9] ĐGM GB Bùi Tuần - Chủ đề “Truyền giáo” - Tĩnh tâm linh mục Gp Long
Xuyên 1990
[10] ĐGM P. Nguyễn Khảm - Sđd trang 98
[11] Linh mục, Giáo sư hùng biện Thomas V. Liske S.T.D - Sđd trang 74
[12] Đức Tổng Giám mục Socrates b. Villegas, OP - “Linh mục hãy thôi lạm dụng bài giảng”- http://daminhvn.net/nhan-dinh/linh-muc-hay-thoi-lam-dung-bai-giang-25689.html
[13] ĐGM P. Nguyễn Khảm - Sđd trang 30
[14] https://gpquinhon.org/q/giang-le/bai-giang-le-truyen-chuc-linh-muc-ngay-07-01-2021-4039.html
[15] Ferdinand Valentine OP - Giảng thuyết, một nghệ thuật - ĐCV Sao Biển Nha Trang
Tác giả bài viết: Aug. Trần Cao Khả